Giới thiệu
Trận chiến Tsushima diễn ra ngày 27-28/5/1905 giữa Hạm đội Baltic của Nga dưới quyền đô đốc Zinovi Rozhdestvensky và hạm đội Nhật dưới quyền Đô đốc Togo Heihachiro trên eo biển Triều Tiên. Nó đánh dấu một bước ngoặt về sự thay đổi quyền lực ở khu vực Thái Bình Dương đầu thế kỷ 20.
Căn nguyên sâu xa
Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra như là kết quả của sự tranh giành phạm vi ảnh hưởng từ đống tro tàn của đế chế Trung Hoa giữa một cường quốc cũ (Nga) và cường quốc mới (Nhật). Trong cuộc chiến Trung-Nhật (1895-1896) mà chiến thắng thuộc về quân đội hiện đại hơn của Nhật, đã tạo cho đế quốc mặt trời mọc này một chỗ đứng trong châu Á đại lục, với cảng chiến lược Arthur tại Mãn Châu, cùng với Đài loan và một khoản tiền bồi thường lớn.
Trận chiến Tsushima diễn ra ngày 27-28/5/1905 giữa Hạm đội Baltic của Nga dưới quyền đô đốc Zinovi Rozhdestvensky và hạm đội Nhật dưới quyền Đô đốc Togo Heihachiro trên eo biển Triều Tiên. Nó đánh dấu một bước ngoặt về sự thay đổi quyền lực ở khu vực Thái Bình Dương đầu thế kỷ 20.
Căn nguyên sâu xa
Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra như là kết quả của sự tranh giành phạm vi ảnh hưởng từ đống tro tàn của đế chế Trung Hoa giữa một cường quốc cũ (Nga) và cường quốc mới (Nhật). Trong cuộc chiến Trung-Nhật (1895-1896) mà chiến thắng thuộc về quân đội hiện đại hơn của Nhật, đã tạo cho đế quốc mặt trời mọc này một chỗ đứng trong châu Á đại lục, với cảng chiến lược Arthur tại Mãn Châu, cùng với Đài loan và một khoản tiền bồi thường lớn.
Nước Nga, sử dụng sức mạnh ngoại giao của mình giữa các cường quốc phương Tây, đã buộc Trung quốc ký một hợp đồng cho thuê, đưa cảng Arthur lại cho Nga. Phong trào Nghĩa hoà Đoàn nổ ra năm 1900 đã tạo điều kiện cho Nga để lại một đơn vị gìn giữ hoà bình ở TQ, và nước Nga đã sử dụng lực lượng đó để chiếm và củng cố cảng Arthur. Căng thẳng vẫn ở mức cao vào năm 1901 mặc dù quá trình đàm phán vẫn tiếp tục, Nhật Bản sắp xếp một hiệp ước với Anh theo đó bảo đảm sự trợ giúp của Anh nếu như có một cường quốc nào khác ngoài Nga liên quan đến vụ việc. Bộ Hải quân Nga đã đánh giá thấp một cách nghiêm trọng quyết tâm của người Nhật và khả năng tiến hành chiến tranh hiện đại của họ. Nhưng thật sự thì con đường dẫn đến chiến thắng của người Nhật đã bắt đầu từ rất lâu trước đó, khi mà họ mở cửa đối với phương Tây.
Phát triển Hải quân
Trong thế kỷ 16, tướng quân mạc phủ Tokugawa, lãnh chúa phong kiến của Nhật, đã tách rời nước Nhật khỏi phần còn lại của thế giới. Trong nhiều thế kỷ, kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất ở đây là súng hoả mai. Cùng với sự tiếp xúc với phương Tây, sau khi hạm đội của đô đốc Perry (Mỹ) tới vịnh Tokyo, nước Nhật nhận ra rằng họ phải hiện đại hoá (không như TQ). Đến năm 1867, họ mua một thiết giáp của phe ly khai trong nội chiến Mỹ, chiếc CSS Stonewall, và bắt đầu xây dựng hải quân hiện đại. Năm 1877 đánh dấu sự thất bại của những samurai cũ trong nội chiến. Một triều đại mới, gọi là Meiji (Minh Trị), nắm quyền và ngay lập tức tái xây dựng nền kinh tế Nhật bằng cách cùng lúc công nghiệp hoá và quân sự hoá, với những thành công vang dội. Từ 1894 đến 1905, chi tiêu cho quốc phòng đạt đến 40% ngân sách. Nếu như năm 1880, tổng trọng tải hạm đội của Nhật chỉ là 15000 tấn thì đến năm 1905, con số này là 252000 tấn, cùng một hạm đội đầy kiêu hãnh với 31 tuần dương hạm và thiết giáp hạm hiện đại.
Hạt nhân của hải quân mới chính là sự huấn luyện, mà đã vượt quá mức yêu cầu. Một ví dụ sống động là về đô đốc Isoroku Yamamoto, người đã bị thương trong trận chiến Tsushima, sau này là kiến trúc sư trưởng của vụ tập kích Trân Châu Cảng lịch sử. Khi còn là một học viên trẻ của hải quân Nhật, cả lớp của ông ta đã được yêu cầu phải bơi qua giữa 2 hòn đảo ngoài khơi phía bắc Nhật Bản. Nơi đó đang có một luồng nước lạnh chảy rất xiết, cùng với những bầy cá mập. Nhiều tá học viên đã không thể chạm tới bờ.
Kỹ năng pháo binh và vận động cũng được tập luyện rất thường xuyên như thể họ đang chiến đấu thật. Các pháo thủ tập bắn với đạn thật, các chiến hạm tập di chuyển vận động với vận tốc như trong chiến đấu mà kết quả có thể khiến con tàu bị hỏng, thậm chí mất tàu. Các sĩ quan và thủy thủ luôn được đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu ở mức cao nhất, không có bất cứ sự kém cỏi nào được chấp nhận. Việc giáng chức, hay đuổi khỏi quân đội rất thường xuyên xảy ra, từ các sĩ quan cao cấp cho tới những lính mới.
Chú gấu già nua
Hải quân Nga, hoàn toàn trái ngược, đang ở trong tình trạng suy tàn. Mặc dù nhiều thủy thủ Nga rất có năng lực, Bộ hải quân lại toàn những kẻ thủ cựu, và ngân sách dùng để duy trì hạm đội Nga lại đặc biệt nhỏ. Tuy vậy, nước Nga, vì sức mạnh trên bộ, vẫn được các nước phương Tây vị nể. Nhưng ngày 10/1/1904, nước Nhật đã làm cả thế giới ngạc nhiên khi tuyên chiến với Nga và tấn công cảng Arthur từ biển. Hải quân Nhật nhanh chóng chiếm ưu thế và tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Nga trong trận chiến Shantung ngày 10/8/1904. Các chiến dịch trên bộ cũng diễn ra quyết liệt mà đỉnh cao là trận chiến Mukden (hay Shenyang) từ 19/2/-10/3/1905 với sự tham gia của 330.000 quân Nga và 270.000 quân Nhật, được nhiều nhà sử học coi là trận chiến “hiện đại” đầu tiên trong lịch sử. Chiến thắng cuối cùng thuộc về người Nhật.
Yêu cầu cần phải tái thiết lập lại quyền lực trên bộ và trên biển đã dẫn tới việc Hạm đội Baltic được lệnh lên đường sang châu Á ngày 15/10/1904. Hạm đội khi đó được đổi tên là Hải đội Thái Bình Dương số 2. Hạm đội được đặt dưới sự chỉ huy của đô đốc Zinovy Petrvich Rozhestvensky, được tăng thêm bởi một số tuần dương hạm cũ kiểu những năm 1880 dưới quyền đô đốc Nebagatov cùng một số tàu vận tải. Rozhestvensky đã chỉ huy hạm đội của mình thực hiện một kỳ công là đi qua một quãng đường dài hơn 18000 hải lý (hơn 33.300 km) và đến châu Á nhiều tháng sau đó (trong số những nơi mà hạm đội này ghé qua có cảng Cam Ranh ở Việt nam). Đáng tiếc là thất bại thảm hại của hạm đội Nga sau đó đã làm lu mờ kỳ tích trên. Mục tiêu của hạm đội là đến được Vladivostok, cảng duy nhất của Nga trong khu vực. Đô đốc Togo biết điều đó, và ông ra lệnh cho tàu của mình tuần tra trên 3 tuyến đường mà hạm đội Nga có thể đi qua.
Diễn biến trận chiến
Trước khi bước vào cuộc chiến, người Nhật đang có những lợi thế mang tính quyết định: chiến trường gần quê nhà, một lực lượng gọn nhẹ hơn gồm toàn những chiến hạm kiểu mới và đồng bộ về tốc độ và hoả lực, thủy thủ được huấn luyện chu đáo và đang có nhuệ khí rất cao, việc lên kế hoạch và tập luyện kỹ lưỡng cho cả mục tiêu chiến lược và chiến thuật.
Ngày 27/5/1905, đô đốc Togo nói với toàn hạm đội “Vận mệnh của đế chế chúng ta phụ thuộc vào chỉ một trận chiến này, mọi người hãy chiến đấu với tất cả khả năng của mình”.
Hạm đội Nga bị phát hiện khi một đội tuần dương hạm của Nhật tìm ra 2 tàu bệnh viện của họ trong một khu vực đầy sương mù ở eo Tsushima tối ngày 26/5/1905. Chiều ngày 27/5, hai hạm đội giáp mặt nhau. Hạm đội Nga xếp thành đội hình hàng dọc từ Nam-Tây Nam sang Bắc-Đông Bắc, còn hạm đội Nhật là từ Tây sang Đông Bắc. Hạm đội Nga có 45 chiếc, gồm 12 thiết giáp hạm (tàu chủ lực), 8 tuần dương hạm, các khu trục hạm và tàu hỗ trợ khác. Phía Nhật có 4 thiết giáp hạm và một số tuần dương hạm, khu trục hạm. Đô đốc Togo có một quyết định táo bạo cho ra lệnh cho hạm đội của mình di chuyển chặn đầu hạm đội Nga và tập trung hoả lực vào chiếc kỳ hạm của hạm đội Baltic, chiếc Knyaz Suvorov, với đô đốc Rozhestvensky trên boong. Cách vận động táo bạo này làm hạm đội Nga bất ngờ, và chỉ có thể được thực hiện nhờ vào lợi thế tốc độ cũng như thủy thủ đoàn thiện nghệ của hạm đội Nhật.
Kỳ hạm Knyaz Suvorov khai hoả trước tiên, ba phút sau, chiếc kỳ hạm của đô đốc Togo, chiếc Mikasa, đáp trả. Đội hình hai hạm đội giữ một khoảng cách ổn định khoảng 6200m và xối hoả lực vào nhau. Nhịp bắn của quân Nhật rất ấn tượng, ước tính khoảng hơn 2000 phát đạn hạng nặng trong 1 giờ. Hơn nữa, người Nhật sử dụng một loại chất nổ có công thức mới trong đạn của mình, bắn vào những cấu trúc phía trên của tàu Nga và làm bùng lên những đám cháy dữ dội trên bất cứ con tàu nào bị bắn trúng. Mức độ chính xác của hoả lực Nhật làm người Nga phải sững sờ. Một sĩ quan Nga, thuyền trưởng Semenoff, đã viết “Tôi chưa bao giờ chứng kiến hoả lực nào như thế trước đây, tôi thậm chí không bao giờ dám tưởng tượng ra. Đạn dường như đang được rót xuống chúng tôi liên tục, cái này tiếp nối cái kia”. Thêm nữa, những chiến hạm của Nhật có thể đạt tốc độ 16 hải lý/h, trong khi của hạm đội Nga chỉ là 8 hải lý/h, chủ yếu vì phải chờ những chiếc tàu vận tải chậm chạp. Không những thế, người Nhật còn sử dụng một loại vũ khí mới là ngư lôi. Đã có lúc trong trận chiến, 30 khu trục hạm Nhật đồng loạt phóng ra 74 quả ngư lôi, đánh chìm ngay lập tức thiết giáp hạm Sisoy Veliky và 2 tuần dương hạm khác.
Trở lại với diễn biến của trận chiến, trong 40 phút đầu tiên, người Nhật xối mưa đạn xuống 2 thiết giáp hạm Nga là chiếc Knyaz Suvorov (tàu chỉ huy) và Oslyabya. Chiếc Oslyabya bị đánh đắm cùng với thuyền trưởng Vladimir Ber cùng phần lớn thủ thủ đoàn. Đô đốc Rozhestvensky bị thương nặng ở đầu, còn chiếc kỳ hạm của ông cũng bị hư hại nặng, hầu như không thể chỉ huy hạm đội được nữa. Chỉ huy 2 thiết giáp hạm Hoàng đế Alexander III và Borodino, thuyền trưởng Bukhvostov và Serebrenikov, cố gắng trong vô vọng để che chắn cho chiếc kỳ hạm và đưa hạm đội trở lại tuyến đường đến Vladivostok. Chiếc Borodino dẫn những thiết giáp hạm quay trở lại đội hình hàng dọc chính, nơi những tuần dương hạm đang chống cự để bảo vệ những chiếc tàu vận tải.
Bỏ lại chiếc kỳ hạm Knyaz Suvorov đang bốc cháy, chiếc Borodino chạy về phía nam, thuyền phó Makarov thay thế thuyền trưởng Serebrenikov, đang bị thương, chỉ huy tàu. Tuy nhiên, nó cùng những chiếc khác bị quân Nhật chặn lại. Chiếc Borodino và Hoàng đế Alexander III bị đánh chìm ngay trước khi màn đêm buông xuống. Và gần như cùng lúc, kỳ hạm Knyaz Suvorov bắt đầu chìm vì bị ngư lôi Nhật đánh trúng. Chiếc khu trục hạm Buyny do Kolomeitsov chỉ huy vội chạy đến để cứu tư lệnh Rozhestvensky và bộ tham mưu. Những sĩ quan của chiếc Kyaz Suvorov gồm đại uý Nikolay Bogdanov, Vyrbov, và thiếu uý Verner Kursel từ chối rời tàu và đã chịu chung số phận với chiếc kỳ hạm.
Tối hôm đó, từ trên boong chiếc Hoàng đế Nicholas I, chuẩn đô đốc Nebogatov tiếp nhận quyền chỉ huy hạm đội. Togo ra lệnh tạm ngừng bắn và cho những khu trục hạm áp sát và tấn công ở khoảng cách gần. 30 khu trục hạm Nhật phóng ra 74 quả ngư lôi Whitehead và đã đánh chìm thiết giáp hạm Sysoy Veliky cùng với tuần dương hạm Đô đốc Nakhimov và Vladimir Monomakh.
Sang ngày hôm sau, 5 chiếc thiết giáp hạm dưới quyền Nebogatov buộc phải đầu hàng. Chuẩn đô đốc Enkwist cùng 3 tuần dương hạm Oleg, Aurora, Zhemchug chạy về được đến căn cứ hải quân Mỹ ở Manila và bị giam giữ ở đó. Chỉ có khoảng 3 chiến hạm bị hư hỏng nặng của Nga, 1 tuần dương hạm hạng nhẹ và 2 khu trục hạm, là tới được Vladivostok. Đô đốc Rozhestvensky và bộ tham mưu được chuyển từ chiếc Buyny, bị hỏng động cơ, sang chiếc Bedovy, và sau đó bị quân Nhật bắt làm tù binh.
Nói chung, một số chiến hạm Nga đã chiến đấu rất anh dũng, đôi lúc trước nhiều tàu địch. Nhưng trước một đối phương hơn hẳn về mọi mặt thì tinh thần thôi là chưa đủ, chưa kể là tinh thần chiến đấu của toàn hạm đội Nhật cũng rất cao. Tổng kết cuộc chiến đã phản ánh chiến thắng vang dội cho phía Nhật. Hạm đội Nga mất phần lớn số tàu chiến, 4380 người chết, 5917 bị thương, 4000 bị bắt làm tù binh, trong đó có 3 đô đốc. Hạm đội Thái Bình Dương, Baltic, và hạm đội dự bị của họ hầu như không còn tồn tại. Phía Nhật mất 117 người, 583 bị thương, mất 3 tàu phóng lôi.
Ảnh hưởng của trận Tsushima
“Người Nga không quá tệ như cái cách mà họ bị đánh bại, và họ bị thảm bại vì họ đã thờ ơ và không bị đẩy vào thế đường cùng như ở Crimea hay như ở cuộc kháng chiến chống Napoleon, trong khi mỗi binh sĩ và thủy thủ Nhật tin rằng, mà thật sự nó đúng như vậy, rằng vận mệnh dân tộc họ đang lâm nguy và mỗi cố gắng của từng cá nhân có thể quyết định đại cục” (theo tờ New York Sun).
Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt chủ trì hội nghị hoà bình ở Portsmouth, New Hampshire, và một hiệp định được ký ngày 6/11/1905. Nước Nga rút khỏi Mãn Châu, công nhận Triều Tiên là “vùng ảnh hưởng” của Nhật, đồng ý cho Nhật thuê bán đảo Liêu Đông, cho Nhật quyền kiểm soát Tuyến đường sắt Nam Mãn Châu, từ bỏ chủ quyền của đảo Sakhalin nằm về phía nam vĩ tuyến 50, cho Nhật quyền đánh bắt cá.
TT Roosevelt đã nhận ra sự ra đời của một con hổ mới của phương Đông. Ông viết trong một bức thư cá nhân năm 1906: “Trong nhiều năm, người Anh, người Mỹ, người Đức, những người xem nhau như kẻ thù trong nền ngoại thương ở Thái Bình Dương, sẽ phải dè chứng Nhật Bản hơn bất cứ quốc gia nào khác trong quá khứ … Nếu chúng ta cố đối xử với họ như cách ta đối xử với người TQ, và cùng lúc chúng ta không thể giữ cho lực lượng hải quân ở mức cao nhất về trình độ và quy mô, thì chẳng khác nào chúng ta đã tự rước hoạ vào thân”.
Về phản ứng của công chúng Nhật trước hiệp định Portsmouth thì nói chung họ coi đó là một sự phản bội. Lời giáo huấn về fukoken kyohei ( một đất nước giàu có với một quân đội mạnh) và cơ sở cho những suy nghĩ của họ. Họ cảm thấy hiệp ước đã cướp đi những lợi ích chính đáng của họ, nước Nhật đã bị o ép. Và họ cho rằng chính quyền dân sự phải chịu trách nhiệm chính, còn giới quân sự là những anh hùng. Đó là nhân tố dẫn đến việc chính quyền Meiji cuối cùng bị phế truất và một chế độ độc tài quân sự được thiết lập và đã dẫn nước Nhật vào Thế chiến thứ hai.
Nước Nhật giờ đây đã có ưu thế trên biển để hỗ trợ cho những bước đi của nó ở Mãn châu, Triều tiên và nhiều nơi khác. Trong khi đó, trong hơn 3 thập niên tiếp theo, những nước phương Tây phải đối phó với chiến tranh thế giới thứ nhất, cách mạng Nga, sự tái sinh của nước Đức quốc xã, và dần rời xa khu vực châu Á. Còn Yamamoto thì lên chỉ huy hạm đội Nhật, và những bài học từ Tsushima, cảng Arthur đã trở thành triết lý quân sự của ông. Những nền tảng quân sự, chính trị, kinh tế cho một trận chiến mới ở Thái Bình Dương đã được thiết lập mà những diễn viên chính trong đó là nước Nhật và nước Mỹ.
No comments:
Post a Comment