30.1.12

Cách mạng về trang bị bộ binh đầu thế kỉ 21

Trong 10 năm kể từ sau vụ khủng bố 11/9 đến nay, Mỹ tiến hành cuộc chiến toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố. Cuộc chiến dài hạn này bao gồm nhiều cuộc xung đột lớn nhỏ khác nhau trên khắp thế giới, từ Afghanistan với Iraq, Pakistan, châu Phi...Và hiển nhiên chúng có ảnh hưởng lớn đến công nghệ quân sự nói chung, trong đó đặc biệt là trang bị cho người lính bộ binh.

Có 2 lí do cho việc này. Thứ nhất là do chủ nghĩa khủng bố là 1 kẻ thù giấu mặt, không phải 1 quốc gia cụ thể, do đó không thể chỉ dựa vào ưu thế vượt trội của các loại vũ khí tối tân, mà yếu tố con người là cực kỳ quan trọng. Nguyên nhân thứ hai là việc các lực lượng đặc nhiệm được sử dụng rất nhiều trong các cuộc chiến này.

Về vũ khí cá nhân, thực sự các nguyên tắc, cấu tạo cơ bản của chúng không thay đổi nhiều. Sự phát triển đáng chú ý nhất là các thiết bị bổ trợ đi kèm nhằm tăng hiệu năng cho súng. Loại thiết bị bổ trợ quan trọng nhất là các thiết bị quang học. Trước kia hầu như chỉ có các xạ thủ, lính bắn tỉa được trang bị ống ngắm, lính bộ binh thông thường chỉ ngắm bằng đầu ruồi và thước ngắm có sẵn trên súng. Ngày nay, các loại kính ngắm, ống ngắm trở nên phổ biến cho mọi người lính. 

Khi tác chiến ở khoảng cách trung bình, từ 300m đến 600m, người lính được trang bị những ống ngắm giúp ngắm mục tiêu chính xác hơn. Những loại này tất nhiên không mạnh bằng các loại ống ngắm chuyên dụng của lính bắn tỉa. Loại thứ 2 là các loại kính ngắm tầm gần, 300m trở xuống. Chúng không có tác dụng phóng đại hình ảnh mà dùng tia laser phản chiếu lên 1 tấm kính quang học đặc biệt để tạo thành điểm ngắm. 



Một lính Mỹ tại Afghanistan được trang bị ống ngắm ACOG, có độ phóng đại 4 lần. Hộp màu vàng nằm trên ốp lót tay là thiết bị chiếu sáng và phát tia laser

So với việc ngắm bằng thước ngắm và đầu ruồi như truyền thống, việc dùng kính ngắm laser có 2 ưu điểm. Thứ nhất là chúng cho phép người lính ngắm bắn và vẫn mở cả 2 mắt, như vậy có thể vừa bắn vừa quan sát xung quanh. Thứ hai chúng giúp rút ngắn thời gian để ngắm trúng mục tiêu. Cả 2 ưu điểm này rất hữu dụng, đặc biệt khi tác chiến tầm gần, hoặc trong đô thị, nơi mà người lính có thể phải đối phó với nhiều mục tiêu, xuất hiện bất ngờ ở cự li gần.



Nhìn qua kính ngắm laser giao thoa 3 chiều


Đơn vị trinh sát lính thuỷ đánh bộ Mỹ tập luyện với kính ngắm giao thoa laser

Một loại thiết bị quan trọng nữa là các đèn chiếu. Chúng gồm 3 loại chính: đèn chiếu ánh sáng thấy được, đèn chiếu ánh sáng hồng ngoại và đèn chiếu laser. Đèn chiếu ánh sáng thấy được phát ra 1 luồng ánh sáng trắng cường độ cao, có độ tập trung cao để chiếu sáng mục tiêu trong đêm hoặc dùng để làm loá mắt đối phương. Tất nhiên chúng có điểm yếu là làm lộ vị trí của người sử dụng.

Loại đèn thứ hai chỉ phát ra ánh sáng trong dải hồng ngoại, mắt thường không thể nhìn thấy được, chỉ những ai trang bị kính nhìn đêm là có thể thấy được. Những người lính được trang bị loại đèn này và kính nhìm đêm có thể chiếu sáng 1 khu vực mà đối phương không hề hay biết. 

Loại đèn cuối cùng phát ra 1 tia laser, có thể nhìn thấy bằng mắt thường hoặc chỉ qua kính nhìn đêm. Chúng có thể được dùng để hỗ trợ việc ngắm bắn hoặc chỉ thị mục tiêu cho các đồng đội hoặc phương tiện khác. Ban đầu 3 loại đèn chiếu này là những thiết bị riêng biệt, hiện nay chúng đã được tích hợp chung vào trong 1 thiết bị duy nhất, do đó tiết kiệm được không gian và trọng lượng. 


Một lính Mỹ tại Afghanistan. Thiết bị màu vàng ở đầu súng là bộ chiếu sáng. Ngoài ra súng còn được gắn thêm ống ngắm ACOG và tay cầm dọc



Tác chiến đêm tại Baghdad, Iraq. Có thể thấy rõ tia laser phát ra từ súng của người lính đứng giữa. Ngoài ra ở hậu cảnh có thể thấy một số vùng sáng, đó là do được đèn hồng ngoại chiếu sáng, những ai không đeo kính nhìn đêm sẽ không thể thấy các vùng sáng này

Đóng vai trò quan trọng nhất cho sự phổ biến của các thiết bị bổ trợ này là loại ray Picatinny. Nó đóng vai trò như một ‘chuẩn giao tiếp’ giữa súng và các thiết bị bổ trợ. Nếu súng được gắn loại ray này, người ta có thể gắn và tháo mọi loại thiết bị khác nhau (nếu chúng được thiết kế để dùng cho với loại ray này) một cách nhanh chóng và dễ dàng. Để so sánh, có thể xem ray Picatinny giống như cổng USB, giúp máy tính kết nối với mọi loại thiết bị ngoại vi một cách đơn giản. Các loại súng hiện nay hầu hết đều tích hợp ray này ngay vào thiết kế của súng.


Ray Picatinny



Một khẩu M4 với thiết kế cải tiến, với 5 ray Picatinny. Mỗi ray có thể gắn 1 thiết bị phụ trợ

Một loại thiết bị quan trọng khác là kính nhìn đêm, giúp người lính có 1 lợi thế khổng lồ khi tác chiến trong đêm. Hiện nay, quân đội Mỹ đang sử dụng loại kính nhìn đêm thế hệ thứ 3, với đơn đặt hàng 50,000 đơn vị, đủ cung cấp cho mọi lính bộ binh đang chiến đấu trên chiến trường. Đặc điểm nổi bật nhất của thế hệ 3 là chúng kết hợp cả 2 công nghệ nhìn đêm là thiết bị khuyếch đại ánh sáng và cảm biến bức xạ nhiệt. 

Các thế hệ kính nhìn đêm trước chỉ dựa vào công nghệ khuyếch đại ánh sáng. Trong đa số trường hợp, con người không thể nhìn thấy gì trong đêm tối không phải vì không có ánh sáng mà là vì ánh sáng quá yếu để mắt người có thể cảm nhận được. Các bộ khuyếch đại ánh sáng mới có thể khuyếch đại lượng ánh sáng mà mắt nhận được lên hơn 50,000 lần so với mức 20,000 lần của thế hệ 2, cho phép người đeo có thể nhìn rõ xung quanh ngay cả với những nguồn sáng cực yếu, như ánh sáng từ các ngôi sao trong đêm. 


Hình ảnh nhìn qua bộ khuyến đại ánh sáng. Người lính trong hình cũng được trang bị kính nhìn đêm, và đèn chiếu sáng hồng ngoại gắn trên súng

Tuy vậy, cho dù có mạnh đến đâu thì bộ khuyếch đại ánh sáng vẫn cần có ánh sáng để có tác dụng. Trong một số trường hợp, ví dụ trong hang động hoặc khi trời có nhiều mây, hoàn toàn không có ánh sáng. Khi đó sẽ cần đến bộ cảm biến nhiệt. Chúng thu nhận các bức xạ nhiệt phát ra từ các vật thể và hiển thị thành hình ảnh. Do đó, chúng cũng có thể được dùng khi có bão cát, hoặc sương mù. Trước đây, cảm biến bức xạ nhiệt có kích thước lớn, chỉ có thể được dùng trên xe bọc thép, máy bay. Chỉ đến gần đây chúng mới đủ nhỏ gọn để trang bị cho bộ binh. 

Với kính nhìn đêm thế hệ thứ 3 này, người lính có thể chọn sử dụng riêng bộ khuyếch đại và cảm biến nhiệt, hoặc kết hợp cả 2. Người lính cũng có thể chụp lại hình ảnh từ kính nhìn đêm của mình và gửi đi dưới dạng kỹ thuật số. Sử dụng loại thiết bị này, người lính có thể phát hiện đối phương ở khoảng cách 300m trong mọi điều kiện ánh sáng. Thiết bị 3+, đang sắp hoàn tất quá trình phát triển, cung cấp hình ảnh sắc nét hơn, đặc biệt là cho phép hiển thị màu sắc thực, thay vì hình ảnh đơn sắc (thường là xanh lá cây) như trước kia. 


Kính nhìn đêm thế hệ thứ 3



Hình ảnh từ kính nhìn đêm thế hệ 3. Bên trái là nếu chỉ dùng bộ khuyếch đại ánh sáng. Bên phải là kết hợp cả bộ khuyếch đại ánh sáng và cảm biến nhiệt, cho phép phát hiện mục tiêu trong bụi rậm

Không chỉ có thể nhìn trong đêm tối, người lính ngày nay còn có thể nhìn xuyên qua tường. Những thiết bị này dùng sóng radio cao tần để phát hiện các vật thể chuyển động phía sau các bức tường. Các thế hệ mới có thể ‘nhìn’ xuyên qua tường dày 30cm, phát hiện mục tiêu ở cách tường tối đa 6m. Nó có thể hoạt động với mọi loại vật liệu xây dựng, trừ kim loại. Chúng cũng có thể được dùng để phát hiện các đường hầm, nằm dưới mặt đất tối đa từ 3m-4m. Những thiết bị này càng ngày càng trở nên nhỏ gọn hơn, bản nhỏ nhất có thể được đeo trên cánh tay.


Người lính chỉ cần áp cảm biến vào tường để phát hiện mục tiêu ở phía bên kia

Áo giáp cũng chứng kiến những bước tiến nhảy vọt. Trước kia nếu được trang bị áo giáp thì thường đó chỉ là giáp mềm, tức là áo giáp dệt từ sợi Kevlar. Chúng không đủ sức chịu được đạn súng trường tự động như AK hay M16. Hiện nay mọi lính bộ binh của Mỹ và nhiều nước đồng minh được trang bị giáp mềm kết hợp với giáp cứng, tức là những tấm chắn làm từ boron carbon, một loại vật liệu siêu cứng. Độ cứng của nó theo thang đo độ cứng là trên 9, trong khi của kim cương là 10. Hiệu quả của loại giáp mới được thể hiện qua thực tế chiến trường tại Iraq và Afghanistan.

Một ví dụ là lính cứu thương Stephen Tschiderer bị trúng đạn từ 1 súng bắn tỉa Dragunov tại Baghdad, Iraq. Phát súng mạnh đến mức anh này bị hất ngã xuống đất. Tuy nhiên viên đạn không xuyên qua giáp, và Shelhart ngay sau đó vẫn có thể tham gia truy đuổi người bắn tỉa. Điều hy hữu là chính Shelhart sau đó đã sơ cứu cho tay súng bắn tỉa khi người này bị thương trong quá trình truy đuổi. Trong một trường hợp khác, 1 lính Iraq, trong chính quyền mới, sau khi nhận tiền từ Al Qaeda đã bắn liên tiếp 4 phát đạn từ khẩu M16 của mình vào lưng 1 lính Mỹ. 3 trong số đó bị cản lại, viên thứ 4 đi vào nách trái, là nơi không có giáp bảo vệ, và xuyên ra ngoài. Người lính hồi phục hoàn toàn chỉ 1 tháng sau đó. Hay 1 lính Mỹ khác trúng liên tiếp 2 phát đạn AK từ khoảng cách chỉ 4m nhưng vẫn không hề hấn gì. 


Tấm giáp đã cứu mạng Stephen Tschiderer. Vị trí phát đạn đi ngay gần tim

Không chỉ có áo giáp, các binh sĩ Anh còn đang sử dụng loại quần đùi làm từ sợi Kevlar, chủ yếu để bảo vệ 2 động mạch chính ở đùi. Nếu các động mạch này bị rách, khả năng tử vong do mất máu là rất cao do rất khó để có thể cầm máu từ các động mạch lớn như vậy. 

Vật liệu cho quân phục cũng có những cải tiến lớn. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ hiện đang sử dụng quân phục làm từ vật liệu chịu lửa. Tuy nhiên công nghệ này hiện vẫn chưa thực sự hoàn thiện, do chúng không bền như quân phục thường, có tuổi thọ chỉ bằng ¼ quân phục bằng sợi cotton, ngoài ra chúng cũng không thấm hút mồ hôi tốt.

Tất nhiên khi nói đến việc bảo vệ cho người lính không thể không đề cập đến mũ bảo vệ. Trước kia mũ thường được làm từ sợi Kevlar, ngày nay chúng được đúc nguyên khối từ loại nhựa tổng hợp cao phân tử mới UHMW, tăng mức độ bảo vệ từ 40%-70% so với các loại mũ cũ. Các loại mũ mới thường nhỏ gọn hơn so với các thế hệ trước. Đó là do người lính ngày nay có thể đeo thêm 1 số thiết bị khác, đặc biệt là tai nghe của radio cá nhân và kính nhìn đêm. Ngoài ra, áo giáp hiện nay đã có phần bảo vệ cổ, nên mũ bảo vệ không cần phải che phủ phần cổ nữa. 


Một loại mũ bảo vệ thường được các lực lượng đặc nhiệm sử dụng. Có thể thấy phần tai được cắt bỏ để người sử dụng đeo tai nghe. Trên mũ có sẵn nhiều điểm gắn thiết bị

Binh sĩ Mỹ tại chiến trường hiện đang bắt đầu được cung cấp 1 loại mũ đặc biệt, bên trong có gắn cảm biến chấn động. Khi người lính bị ảnh hưởng bởi sóng chấn động của 1 vụ nổ, cảm biến này sẽ đo mức độ chấn động mà não người lính vừa chịu đựng và sẽ báo động nếu chấn động ở mức độ nguy hiểm. 

Hiệu quả tác chiến của lính bộ binh hiện đại ngày nay lớn hơn trước kia nhiều lần một phần còn nhờ sự xuất hiện của các micro UAV, hay máy bay không người lái siêu nhỏ. Những UAV này đủ nhỏ để người lính bộ binh có thể mang theo người, và đơn giản để bất kì 1 người lính nào cũng có thể sử dụng ngay tại chiến trường.

Mẫu micro UAV phổ biến nhất hiện nay là Raven, đang được lục quân Mỹ sử dụng. Nặng 2kg, Raven có thể được tháo rời và lắp ráp dễ dàng và bỏ vừa 1 balô, người sử dụng chỉ cần phóng đi bằng tay là Raven có thể cất cánh. Raven hoạt động bằng pin, do đó rất yên lặng, nó có thể hoạt động liên tục trong hơn 60 phút. Tầm hoạt động tối đa là 15km. Người điều khiển có thể lập trình trước lộ trình của Raven, sử dụng toạ độ GPS, thông qua 1 bộ điều khiển cầm tay. Raven được trang bị cả camera ban ngày và ban đêm, truyền hình ảnh video trực tiếp về cho người điều khiển bên dưới. Trung bình Raven có thể được sử dụng 200 lần. Raven có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, như trinh sát, bảo vệ các đoàn xe quân sự, tuần tra an ninh quanh các khu căn cứ. Phiên bản mới nhất của Raven đã được đưa vào sử dụng từ cách đây 3 năm, và hiện nay đang dần được thay thế bằng những thiết kế mới hiện đại hơn. 


Một người lính phóng Raven bằng tay tại Iraq

Các đơn vị đặc nhiệm Anh tại Afghanistan sắp tới sẽ được sử dụng một loại UAV cực nhỏ PD-100, có kích thước và hình dáng như 1 con chuồn chuồn, và chỉ nặng 15g. Một hộp chứa 3 chiếc như vậy cộng với bộ điều khiển chỉ nặng 1kg. Nhiệm vụ của PD-100 là thám thính bên trong các toà nhà trước khi lính đặc nhiệm ập vào. 

PD-100

Giày bộ binh cũng có những bước phát triển vượt bậc. Đây là một vật dụng tuy nhỏ nhưng lại cực kỳ quan trọng với 1 người lính bộ binh. Điểm khác biệt lớn nhất hiện đó là giày bộ binh hiện nay sử dụng các thiết kế dân sự, đặc biệt là từ các mẫu giày chuyên dụng cho việc dã ngoại hoặc leo núi. Ví dụ như mẫu Belleville 950 mà quân đội Mỹ vừa đặt mua đầu năm 2011 để trang bị cho binh sĩ đóng quân tại Afghanistan. Đây là mẫu giành cho những vận động viên leo núi, rất thích hợp địa hình nhiều sa mạc đá và đồi núi của Afghanistan. Và không chỉ giày, mà ngay cả đối với vớ (tất), quân đội cũng dần chuyển sang các mẫu vớ thể thao cao cấp. Mỗi đôi như vậy có thể có giá đến $20, loại vớ này có 2 lớp. Bên trong là lớp lông cừu, bên ngoài là sợi tổng hợp. 

Một loại giày mới hiện nay áp dụng từ trường để giảm chấn động lên gót chân người lính khi di chuyển. Nguyên tắc hoạt động của nó khá đơn giản, 2 nam châm được đặt bên trong gót giày, với 2 cực trái dấu đối diện nhau. Lực đẩy tạo ra giữa 2 cực đó sẽ đóng vai trò như một lò xo vô hình hấp thụ tác động tạo ra trong mỗi bước đi. Bên cạnh đó, nó cũng giải phóng năng lượng mỗi khi người lính nhấc chân lên, tạo ra 1 lực đẩy nhẹ cho bước chân sắp tới. 





Giải cứu vệ tinh quân sự trị giá 2 tỷ dollar ngoài không gian

Bài viết trên bee.net: http://bee.net.vn/channel/2981/201201/Giai-cuu-ve-tinh-quan-su-tri-gia-2-ty-dollar-1823479/

Vừa qua quân đội Mỹ vừa thực hiện một chiến dịch kéo dài 14 tháng nhằm giải cứu vệ tinh quân sự AEHF-1 trị giá 2 tỷ dollar bị hỏng động cơ đẩy khi đang ở trong không gian. Chiến dịch này kết thúc vào tháng 10 năm ngoái, nhưng đến tháng 1 năm nay các chi tiết mới được chính thức công bố. 

AEHF là hệ thống vệ tinh liên lạc quân sự mới nhất của Mỹ, gồm 6 vệ tinh, trong đó AEHF-1 là chiếc đầu tiên. Đây là một trong những dự án không gian lớn nhất của quân đội Mỹ trong vòng 10 năm qua. AEHF có băng thông gấp 10 lần hệ thống hiện tại. Nó đóng vai trò đảm bảo liên lạc thông suốt cho quân đội Mỹ cho đến cấp cao nhất. Nếu trong trường hợp tổng thống Mỹ phải ra lệnh cho quân đội trong một cuộc chiến tranh hạt nhân, mệnh lệnh này cũng sẽ được truyền qua hệ thống AEHF. 

Vệ tinh AEHF-1, nặng 6 tấn, có giá thành tương đương 1 tàu ngầm hạt nhân nặng 8,000 tấn, được phóng lên không gian ngày 14/8/2010. Ngay sau khi tách thành công khỏi tên lửa đẩy, động cơ chính của nó gặp vấn đề và AEHF-1 gần như đã bị rơi trở lại Trái đất. 


Hình 1 - AEHF-1 trong quá trình lắp ráp

Tìm hiểu về các loại động cơ của vệ tinh

Trước khi đi vào chi tiết chiến dịch giải cứu, ta cần hiểu về các loại động cơ đẩy được sử dụng trên vệ tinh AEHF-1. Cũng như nhiều vệ tinh hiện đại khác, AEHF-1 sử dụng 3 loại động cơ đẩy khác nhau: động cơ hydrazin nhiên liệu kép, động cơ hydrazine đơn, động cơ ion xenon.

Động cơ hydrazine nhiên liệu kép là động cơ chính của AEHF-1, có nhiệm vụ đẩy vệ tinh này từ quỹ đạo thấp, ngay sau khi nó tách khỏi tên lửa, lên quỹ đạo địa tĩnh, là nơi AEHF-1 sẽ duy trì vị trí của mình và thực thi nhiệm vụ. Động cơ này sử dụng nhiên liệu chính là hydrazine (N2H4), một loại nhiên liệu phổ biến trong ngành không gian, trộn lẫn với nitro tetroxide (NTO), một chất oxy hoá, để đốt cháy và tạo sức đẩy phản lực. Trên thực tế, hydrazine là 1 chất rất kém ổn định, có thể dễ dàng tự phân huỷ và tạo ra nhiệt lượng lớn mà không cần có oxy đốt cháy. Tuy nhiên trong loại động cơ này người ta vẫn trộn thêm chất oxy hoá để tăng thêm sức đẩy. Động cơ này trên AEHF-1 có sức đẩy khoảng 50 kg. 

Động cơ hydrazine nhiên liệu đơn cũng sử dụng hydrazine, nhưng không cần được cung cấp oxy. Người ta cho hydrazine tiếp xúc với iridium, đóng vai trò là chất xúc tác, để nó tự phân huỷ thành khí amoniac, hydro và nitro, cùng với 1 lượng nhiệt lớn. Nhiệt lượng này làm các khí trên giãn nở rất nhanh và tạo ra luồng đẩy phản lực. Đây là động cơ phụ, đóng vai trò để điều chỉnh vị trí của vệ tinh, ví dụ như khi nó bị lệch khỏi vị trí đúng, hoặc khi cần phải tránh các vật thể lạ trong không gian. Động cơ này cung cấp sức đẩy 2.5 kg. 

Loại động cơ cuối cùng là động cơ ion xenon, trong đó các nguyên tử khí xenon sẽ bị ion hoá. Các hạt ion này sau đó được tăng tốc bằng lực điện trường, tạo thành 1 luồng ion bắn về phía sau với tốc độ cao, và đẩy vệ tinh về phía trước. Ưu điểm của loại động cơ này là chúng chỉ dùng các nguyên tử khí làm nhiên liệu nên gần như không phải lo lắng về việc hết nhiên liệu, miễn là các tấm pin năng lượng mặt trời của vệ tinh vẫn tiếp tục cung cấp năng lượng điện cho động cơ. Điểm yếu của chúng là lực đẩy rất yếu, chỉ khoảng 0.03 kg, do đó chỉ được dùng để thực hiện những vận động nhỏ của vệ tinh khi nó đã ở cách xa Trái Đất.


Sự cố trong không gian

Sau khi tách khỏi tên lửa đẩy, AEHF-1 xoay quanh Trái Đất theo quỹ đạo tạm, theo kế hoạch nó sẽ được đưa lên quỹ đạo địa tĩnh, cách Trái đất hơn 35,000 km. Ngày 15/8/2010, trạm điều khiển bắt đầu quá trình nâng quỹ đạo cho AEHF-1 bằng cách ra lệnh cho động cơ chính, tức là động cơ hydrazine nhiên liệu kép, khai hoả. Tuy nhiên nó chỉ hoạt động trong vài giây rồi dừng. Hai ngày sau, động cơ được khởi động 1 lần nữa, nhưng vẫn thất bại. Toàn bộ Bộ tư lệnh không gian Mỹ được đặt trong tình trạng báo động. Một nhóm chuyên gia xem xét mọi dữ liệu được vệ tinh gửi về và xác định rằng lỗi xảy ra do một mảnh vải bị kẹt lại trong ống dẫn nhiên liệu trong quá trình lắp ráp động cơ chính. Nhóm chuyên gia cũng xác định rằng nếu cố gắng khởi động lại động cơ này thêm 1 lần nữa có thể làm nổ vệ tinh. 

Quỹ đạo tạm thời mà AEHF-1 đang di chuyển có hình elip dẹp, lệch tâm khỏi Trái Đất, do đó khoảng cách giữa nó với Trái đất biến động rất lớn, từ 230 km cho đến 50,000 km. Do thường xuyên di chuyển rất gần Trái đất, AEHF-1 chịu ảnh hưởng mạnh của trọng lực, vì vậy mỗi ngày trôi qua độ cao của nó giảm khoảng 5 km. Nghĩa là nếu không được cứu kịp thời AEHF-1 sẽ từ từ rơi trở lại Trái đất. Ngoài ra, ở độ cao này, AEHF-1 còn thường xuyên phải tránh mảnh rác thải vũ trụ. 

Các kỹ sư vì vậy phải tìm cách đưa được AEHF-1 lên quỹ đạo địa tĩnh chỉ bằng 2 loại động cơ phụ còn lại. Những người này được lệnh ở lại trong trung tâm điều hành cho đến khi phác thảo xong kế hoạch giải cứu chi tiết. Ngày 21/8/2010, đúng 1 tuần sau khi AEHF-1 được phóng lên không gian, kế hoạch giải cứu chính thức được thông qua, gồm nhiều giai đoạn khác nhau.


Hình 2 - Các quỹ đạo của AEHF-1 qua từng giai đoạn của chiến dịch giải cứu

Chiến dịch giải cứu 

Giai đoạn đầu tiên được khởi động từ ngày 29/8/2010, sử dụng 4 lần đốt của cácđộng cơ phụ hydrazine nhiên liệu đơn. Đến đầu tháng 9, quỹ đạo của AEHF-1 được nâng lên, điểm thấp nhất có độ cao 1,000 km. Giai đoạn 2 là sự tiếp nối của giai đoạn 1, các động cơ hydrazine đơn tiếp tục được khai hoả. Đến ngày 22/9/2010, giai đoạn 2 hoàn tất, lúc này khoảng cách từ  AEHF-1 đến Trái đất là từ 4,800 km đến 50,000 km. 

Trong quá trình AEHF-1 từ từ di chuyển lên các quỹ đạo cao hơn, nó phải phơi mình trước ánh sáng mặt trời trong thời gian dài. Vì vậy các kỹ sư phải viết lại phần mềm điều khiển để thường xuyên xoay AEHF-1 sao cho các phía của vệ tinh luân phiên có thời gian nguội lại. 

Giai đoạn 3 bắt đầu từ tháng 10/2010 và kéo dài đến tháng 6/2011, đây là giai đoạn dài nhất và nhiều thử thách nhất. Lúc này AEHF-1 phụ thuộc hoàn toàn vào các động cơ ion xenon. Như đã giới thiệu, các động cơ này hầu như không tiêu thụ nhiên liệu, mà chỉ cần điện năng từ các tấm pin mặt trời của vệ tinh. Một khó khăn khác nảy sinh trong giai đoạn này. Đó là việc AEHF-1 lúc này đang đi vào khu vực vành đai Van Allen. Đây là khu vực có các hạt điện tích bị từ trường của Trái đất giữ lại, do đó có mức độ bức xạ rất cao. Bức xạ này có thể làm hỏng các tấm pin mặt trời. Do đó trạm điều khiển phải tìm cách đưa vệ tinh ra khỏi vành đai Van Allen càng nhanh càng tốt. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử khám phá không gian một động cơ ion được sử dụng nhiều trong 1 thời gian dài như vậy. Giai đoạn này kết thúc vào ngày 2/6/2011. Quỹ đạo của AEHF-1 lúc này vẫn có hình elíp, với điểm xa Trái đất nhất vẫn ở khoảng 50,000 km, còn điểm gần nhất đã tăng lên 27,000 km.

Trong giai đoạn cuối cùng của chiến dịch, mục tiêu là chuyển quỹ đạo của AEHF-1 thành quỹ đạo tròn, cách Trái đất 35,000 km, cũng là quỹ đạo địa tĩnh mà AEHF-1 sẽ duy trì trong thời gian hoạt động của mình. Giai đoạn này vẫn tiếp tục sử dụng các động cơ ion xenon. AEHF-1 đạt được quỹ đạo mong muốn vào 24/10/2011. 

Trong toàn bộ chiến dịch, người ta đã sử dụng gần 500 lần khai hoả động cơ khác nhau. Mặc dù quá trình này kéo dài đến 1 năm, lượng nhiên liệu được sử dụng gần như bằng với mức tiêu thụ trong điều kiện bình thường, do đó thời gian sử dụng của AEHF-1 sẽ không bị ảnh hưởng. Dự kiến nó sẽ có tuổi thọ 14 năm. Hiện nay AEHF-1 đang trong quá trình chạy thử các hệ thống, dự kiến đến tháng 3 tới nó sẽ chính thức được đưa vào sử dụng. AEHF-2 và 3 dự kiến cũng sẽ được phóng trong vòng năm nay.