25.4.09

Khoang chứa vũ khí kín của F-22


Mạo hiểm cùng Tornado


Một chiếc Tornado của không quân Ý bay rất thấp, đầu cánh máy bay gần như chạm đường băng.

T-38 vs. F-22


Hôm 18/4, trên trang web chia sẻ video YouTube xuất hiện một đoạn clip ngắn về một trận không chiến giả ở tầm gần. Trong đó một chiếc T-38, là máy bay chuyên dùng để huấn luyệnp phi công, đã 'bắn trúng' một chiếc F-22. Sự kiện này được cho là đã diễn ra trong khoảng thời gian 3 tháng qua. Đây là đoạn video đầu tiên được công bố liên quan đến việc một F-22 bị hạ trong tập luyện.

Trong những lần huấn luyện như vậy, F-22 luôn được đặt trong những tình huống rất bất lợi hơn nhiều so với những điều kiện thực tế có thể xảy ra trên chiến trường, ví đó chính là ý nghĩa của huấn luyện. Ngay cả vậy, F-22 luôn có tỷ lệ thiệt hại rất ít, và các thông tin về những lần thất bại của nó luôn thu hút rất nhiều sự chú ý.

Cuộc chiến Falkland

Một cuộc xung đột kỳ lạ trên khu vực Nam Đại Tây Dương, khi nước Anh và Argentina lao vào một cuộc chiến trên khu vực đảo Falkland, một thuộc địa của Anh.
Sự đối địch bắt đầu 19/3/1982, khi 60 công nhân Argentina được một tàu chiến của nước này thả lên một hòn đảo be tí gọi là South Georgia ,một nơi hầu như không có người ở, cách bờ biển Argentina 1200 dặm, và là một phần của Falkland. Những công nhân mau chóng tháo dỡ một trại săn cá voi bỏ hoang để tận dụng sắt thép, rồi họ giương ngọn cờ trắng-xanh lơ của Argentina. Chỉ một hành động đơn giản đó thôi nhưng đã kích hoạt một cuộc chiến giữa Liên hiệp Anh và Argentina, mà đã cướp đi mạng sống của hơn 1000 người, làm thiệt hại mỗi bên hàng tỷ dollar, mà cho phần còn lại của thế giới những cái gì ớn lạnh về những gì có thể xảy ra trong một cuộc chiến quy ước ở thời đại kỹ thuật cao này. Sau “cuộc chiến nhỏ đẫm máu” này, những lãnh đạo quân sự đã bắt đầu viết lại những cuốn sách giáo khoa về chiến tranh, trong khi những chuyên gia tranh cãi về thành công, thất bại của những vũ khí cũng như chiến thuật tại Falkland.
Quần đảo Falkland bao gồm khoảng 200 hòn đảo ở Nam Đại Tây Dương, ngoài khơi nơi tận cùng của lục địa Nam Mỹ, một nơi khét tiếng vì cái lạnh khủng khiếp, biển động dữ dội, và đất đai cằn cỗi. Đảo Đông và Tây Falkland, những hòn đảo lớn nhất, cách bờ biển khoảng 300 dặm.
Dân cư của đảo gồm khoảng 2000 người, hơn 600.000 con cừu, và 10 triệu con chim cánh cụt. Nuôi cừu là ngành kinh tế chính.Người dân ở đây chủ yếu có nguồn gốc Anh.
Anh và Argentina đã tranh chấp nhau vùng đảo này từ gần 150 năm qua. Quần đảo được phát hiện năm 1592 bởi nhà hàng hải Anh John Davids. Người Anh, Pháp,Tây Ban nha đã định cư ở đó vào những lúc khác nhau. Argentina tuyên bố chủ quyền sau khi giành được độc lập từ TBN đầu thế kỷ 19. 1832, quân Anh đổ bộ lên đảo và tuyên bố chủ quyền đối với nó. Từ đó, Argentina liên tục đòi hỏi chủ quyền của họ ở đó, và người Anh cũng dần đồng thuận. Những cuộc đàm phán để chuyển giao đảo cho Argentina bắt đầu từ những năm 60, nhưng đã bị đóng băng do người dân Falkland mong muốn được tiếp tục là công dân Anh.
Sau sự kiên công nhân Argentina đổ bộ lên đảo, nhà đương cục Anh ở đây thông báo rằng những hành động như vậy là phi pháp, và yêu cầu những người này rời đảo, hoặc xin phép chính thức nếu muốn ở lại. Mặc dù một số công nhân rời đi, phần lớn vẫn ở lại. Thủ tướng Anh Margaret Thatcher đưa ra một sự phản đối ngoại giao mạnh mẽ, tàu phá băng Endurance, đang ở Nam Đại Tây Dương, đã tiến sát South Georgia như một sự thị uy.
Đến cuối tháng 3, trên các phương tiện truyền thông tràn ngập thông tin về những căng thẳng ngày càng dâng cao giữa Argentina và Anh. Những tàu của Argentina được thông báo là đang tiến về Falkland, về giới chức trên đảo lo rằng một cuộc xâm lăng sắp xảy ra. Những quan sát viên quân sự khắp nơi trên thế giới theo dõi sát sao tình hình.Nó hứa hẹn sẽ là một cuốn sách giáo khoa về chiến tranh giữa những lực lượng quân sự khá cân bằng với những vũ khí hiện đại, và là cuộc giao tranh trên biển-trên không lớn đầu tiên kể từ sau Đệ nhị thế chiến. Mặc dù nước Anh có quân đội lớn hơn khá nhiều và vũ khí cũng có vẻ hiện đại hơn, nhưng Argentina lại có một lợi thế rõ rệt về địa lợi, chiến trường nằm ngay sân nhà của họ, trong khi cách London 8000 dặm. So sánh về trang bị, hạm đội Anh có 2 tàu sân bay : Invincible và Hermes, Argentina có 1 : Veinticinco de Mayo. Anh có phản lực cơ Harrier trên tàu sân bay, Argentina có A-4 (Mỹ) và Mirage (Pháp). Anh có máy bay ném bom Vulcan, Argentina có Canberra. Cả 2 gần như tương đương nhau về trực thăng, khu trục hạm, tuần dương hạm, khinh hạm.
Tại Lầu Năm Góc , Lực lượng phản ứng nhanh (RDF)đặc biệt quan tấm đến quá trình cuộc chiến, vì khoảng cách địa lý mà phía Anh phải đối diện cũng tương tự từ Mỹ đến Vùng Vịnh, một nhiệm vụ mà RDF sẽ phải gánh vác.

Cuộc xâm lăng của Argentina
2/4/1982 ,một đơn vị khoảng 1000 lính Argentina bất thần tràn từ bờ biển vào gần thủ phủ Stanley của đảo và tấn công một trại lính , nơi có khoảng 70 đến 80 lính thủy quân lục chiến Hoàng gia. Theo phía Anh, sau một cuộc chạm súng dữ dội, thủy quân lục chiến đã tiệu diệt 5 lính Argentina , làm bị thương 17, phá huỷ một xe bọc thép, còn phía Argentina thông báo 1 chết,2 bị thương. Số thủy quân lục chiến bị bắt sau 3 giờ rưỡi đấu súng, không có thương vong nào. Trong ngày đầu tiên đó, Argentina đã đổ 4000 lính lên đảo.
3/4/1982, biệt kích Argentina tràn lên South Georgia, nơi họ đụng độ với một nhóm nhỏ lính thủy đánh bộ Anh, được gởi đến để đuổi những công nhân xây dựng Argentina còn ở lại. Trong cuộc chiến ở cảng Grytviken, phía Anh thông báo đã tiêu diệt 2 trực thăng và giết từ 10 đến 15 lính Argentina, phía Argentina thông báo có 3 thương vong. Một lần nữa, lính Anh bị bắt mà không có thương vong nào.
Xuyên suốt cuộc chiến Falkland, thế giới biết về cuộc chiến chỉ thông qua những tuyên bố của Anh và Argentina. Không như những cuộc chiến khác, không có một phóng viên của một nước không tham chiến nào có mặt tại Falkland. Sau cuộc chiến, một số phóng viên Anh,những người được phép đi cùng với binh sĩ, đã tiết lộ những chi tiết mà đã được bảo mật trong thời gian chiến sự, họ thậm chí phỏng vấn cả những người lính Argentina trở về từ chiến tranh.

Trả đũa
Ngày 5/4, đội tiên phong của hạm đội liên hợp Anh, bao gồm 2 tàu sân bay Invincible và Hermes, bắt đầu hướng tới Falkland, chở theo từ 5000 đến 6000 lính.Anh sử dụng đảo Ascension , ở khoảng giữa từ Anh tới Falkland, như một điểm tập trung quân.
Ngày 7/4, phía Anh tuyên bố từ ngày 12/4, chiến hạm của nước này sẽ phong toả một vùng biển có bán kính 200 dặm kể từ đảo Falkland. Hải quân Hoàng gia cảnh báo rằng những tàu ngầm hạt nhân của họ sẽ đánh đắm bất cứ con tàu nào của Argentina tìm cách xâm nhập vùng cấm. Argentina ngay lập tức phản ứng bằng cách rút toàn bộ hạm đội của mình về những cảng trong đất liền. Những con tàu của họ không bao giờ dám thật sự thách thức vòng phong toả đó.
Những nhà phân tích sau đó đã kết luận rằng chính khoảng thời gian trong tháng tư là bước ngoặt trong quá trình chuẩn bị chiến tranh, khi mà những tư lệnh của Argentina phạm những sai lầm tai hại. Trong khi mà hạm đội Anh đang Nam tiến, những đơn vị Argentina đã cố gắng và thất bại trong việc mở rộng những đường băng ở những sân bay thô sơ ở Stanley và Goose Green để có thể tiếp nhận những máy bay lớn như Skyhawk của Mỹ và Mirage, Super Etendard của Pháp. Binh lính sau này than phiền là những chỉ huy của họ không biết gì về kỹ thuật xây dựng.
Thiếu những đường băng tương xứng, Argentina đã không bao giờ có thể thực hiện được những phi vụ không kích quy mô nhắm vào hạm đội Anh từ Falkland. Thay vào đó, máy bay của họ phải bay từ những sân bay ở đất liền rồi quay về trong một quãng đường hơn 600 dặm. Do đó, phía Anh chỉ cần giữ hạm đội của mình ngoài tầm hoạt động của A-4 hay Mirage, rồi từ đó họ phóng ra hết đợt này đến đợt khác những cuộc oanh tạc nhắm vào đảo. Sau này, khi giao tranh xảy ra trên đất liền, lính Argentina cũng nhận được rất ít yểm trợ từ trên không, do những phi công của họ, bay từ đất liền ra, có rất ít thời gian bay phía trên đảo, trước khi phải quay về.
Giữa tháng 4, cả 2 bên đều hung hăng vận động lực lượng, khí tài đến khu vực chiến sự. Tàu sân bay Veinticinco de Mayo rời quân cảng Puerto Belgrano tiến về Falkland, cùng với 3 tàu ngầm, 1 tuần dương hạm, 2 khu trục hạm và một số tàu khác.Tàu của Argentina chủ yếu ở ngoài khu vực phong toả của người Anh. 22/4, con tàu đầu tiên của hạm đội Anh tiến vào khu vực chiến sự. Sáng đó, một đơn vị lính Anh bí mật đổ bộ lên South Georgia để trinh sát, 2 trực thăng của Anh bị rơi trong một trân bão tuyết trong chiến dịch đó, tất cả nhân viên phi hành đoàn được cứu, và tai nạn đã không được thông báo mãi đến 3 tuần rưỡi sau.

(còn tiếp)

22.4.09

Một thất bại nữa của Rafale





MMRCA là hợp đồng cung cấp 126 máy bay chiến đấu đa năng hạng trung mới cho không quân Ấn độ (IAF). Với giá trị hơn 10 tỷ dollar, nó là gói thầu cung cấp chiến đấu cơ lớn nhất kể từ những năm 90, theo lời một quan chức Boeing. Tầm quan trọng của nó không chỉ là bản thân giá trị của hợp đồng, mà còn là việc Ấn độ là một trong những thị trường quốc phòng béo bở nhất hiện nay mà bất cứ ai cũng muốn chen chân vào. Trước đây Ấn độ hầu như chỉ sử dụng vũ khí của Nga, nhưng những năm gần đó, họ chủ động tìm kiếm nhiều nguồn vũ khí khác nhau, và đã mua rất nhiều vũ khí từ phương Tây.

Các đối thủ cạnh tranh với nhau gồm: Mig-35 từ Nga, F-16 và F-18E/F từ Mỹ, Typhoon của dự án liên kết Eurofighter, Rafale của Pháp, Gripen từ Thụy Điển. Có thể nói hầu như tất cả anh tài của lớp chiến đấu cơ hạng trung đều có mặt.

Tuy vậy, mới đây danh sách đó đã ngắn lại khi mà Ấn độ vừa tuyên bố loại Rafale ra khỏi cuộc đua, thậm chí ngay khi mà các cuộc bay thử còn chưa bắt đầu với lí do nó không đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và giá thành cao. Sự việc này gây chú ý không chỉ vì Rafale là đấu thủ đầu tiên ngã ngựa và còn vì một lần nữa nó nhắc mọi người nhớ rằng Rafale là chiến đấu cơ duy nhất của phương tây mà chưa có bất cứ một hợp đồng xuất khẩu nào (tất nhiên không tính tới những máy bay bị cấm xuất khẩu như F-22) mặc dù nếu xét về mặt kỹ thuật, nó là một máy bay rất đáng nể.

Từ khi xuất hiện vào những năm 90, Rafale đã trở thành một mốc son của công nghệ hàng không Pháp, thay thế cho dòng Mirage nổi tiếng. Rafale tích hợp những công nghệ mới nhất thời đó về radar quét điện tử, vật liệu composite, khí động học, tác chiến điện tử…Rafale trở thành một máy bay đa năng thế hệ 4+ với rất nhiều tính năng ưu việt.

Trang bị cánh tam giác, một chi tiết tiêu biểu của các máy bay của nhà chế tạo Dassault, cùng với 2 cánh phụ ở mũi và hệ thống điều khiển vi tính ("bay bằng dây") khiến cho nó cực kỳ linh hoạt trong cơ động. Nó có khả năng đạt đến giới hạn cơ động 11G (gấp 11 lần gia tốc trọng trường) 2 động cơ M88 cung cấp sức đẩy 10 tấn.

Các thông số chính: tốc độ tối đa 2125 km/h, tầm hoạt động 1850 km, trần bay 17km.

Rafale có 3 phiên bản chính: C là loại chuyên dùng không đối không, B là máy bay ném bom chiến đấu, M là loại dùng trên tàu sân bay. Thiết kế của Rafale có nhấn mạnh đến yếu tố diện tích phản xạ radar. Thân máy bay làm từ vật liệu tổng hợp. Hỗn hợp carbon và kevlar (vật liệu trong áo chống đạn) được phủ trên bề mặt máy bay. Hợp kim titan và nhôm-lithium cũng đượ sử dụng nhiều. Rafale vẫn thường được gọi là máy bay 'bán tàng hình'.

Hệ thống điện tử của nó cũng rất đáng nể. Radar quét điện tử thụ động RBE2 có khả năng theo dõi cùng lúc 8 mục tiêu, phân tích và xác định mức độ ưu tiên của các mục tiêu đó. Nó còn có thể quét và tái tạo hình ảnh 3 chiều của địa hình bên dưới cho phép máy bay bay ở độ thấp, bám sát địa hình mặt đất. Nó có thể đồng thời theo dõi một mục tiêu trên không cùng lúc với việc tìm kiếm mục tiêu dưới mặt đất. Radar quét điện tử thụ động của Rafale tuy vậy không có tầm hoạt động và độ nhạy tốt như các radar quét điện tử chủ động ra đời sau này, hay các radar quét cơ thế hệ mới trên Gripen hay Typhoon.

Mũi máy bay có gắn thiết bị cảm biến hồng ngoại OSF, dùng để phát hiện bức xạ nhiệt từ các máy bay khác, nếu như radar bị vô hiệu hóa. Thực tế, nó gồm 2 cảm biến. Ở bên phải là cảm biến tầm xa, dùng để xác định nguồn phát nhiệt. Bên trái là cảm biến tầm gần, dùng cảm biến hình ảnh, cho phép phóng lớn hình ảnh của mục tiêu lên màn hình để phi công có thể xác định mục tiêu bằng mắt thường, giúp giảm nguy cơ bắn nhầm đồng đội.

Hệ thống tác chiến điện tử Spectra là niềm tự hào của Rafale, nó là một phần trong tính năng 'tàng hình' của Rafale. Nó bao gồm các bộ phát hiện tín hiệu vô tuyến, cảm biến phát hiện tên lửa, cảm biến cảnh báo laser, và bao phủ 360 độ quanh máy bay. Các bộ phát hiện tín hiệu có thể xác định góc tới của tia radar với độ chính xác chưa tới 1 độ. Spectra còn có tính năng gây nhiễu chủ động với độ chính xác cao nhắm vào nguồn phát radar.

Tuy vậy, tính năng độc đáo nhất của Spectra là 'triệt tiêu tín hiệu chủ động". Theo đó, khi máy bay bị đối phương chiếu radar vào, nó sẽ phát ra một tín hiệu mô phỏng tín hiệu radar đối phương bị phản xạ lại, nhưng lệch 1 nửa bước sóng, do đó nó sẽ triệt tiêu với tính hiệu thật và radar đối phương không nhận được gì. Cơ chế này cũng tạo ra rất ít năng lượng, giúp máy bay khó bị phát hiện hơn.

Một đặc tính nữa của Rafale là khả năng tổng hợp cảm biến. Theo đó, thông tin từ tất cả các nguồn cảm biến: radar, OSF, Spectra…sẽ được tổng hợp, trộn chung lại và hiển thị ra một màn hình duy nhất, cung cấp một góc nhìn toàn cảnh 360 độ với tất cả thông tin cần thiết. Buồng lái được trang bị các màn hình cảm ứng lớn, với diện tích hiển thị 160 inch vuông, chỉ thua 180 inch vuông của F-22. Nó còn có điều khiển bằng giọng nói. Thông tin có thể được hiển thị ngay trên kính của mũ bảo hiểm, cho phép phi công có thể theo dõi và khóa mục tiêu chỉ bằng cách xoay đầu.

Rafale là một máy bay khá nhỏ nhưng sức chở đáng nể, với khoảng 10 tấn. Khi không có nhiên liệu hay vũ khí, nó nặng hơn F-16C 1.5 tấn, nhưng trọng lượng cất cánh tối đa của nó thì hơn tới 5 tấn. Nó có thể mang theo rất nhiều loại vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Các loại trang bị chính của nó gồm:

Tên lửa không-không MICA, phiên bản trang bị đầu dẫn hồng ngoại, nó có khả năng nhận thông tin cập nhật về mục tiêu từ máy bay mẹ và tính năng cơ động rất tốt.

Bom bay AASM, tầm tối đa 50km, dẫn đường bằng GPS, kết hợp cảm biến hồng ngoại.

Tên lửa hành trình Storm Shadow, tầm 250km, dẫn đường bằng GPS, radar địa hình, hồng ngoại.

Ngoài ra nó còn có thể được trang bị hầu hết các loại vũ khí của các thành viên NATO khác.

Rafale được thiết kế tối ưu cho việc bay rất thấp, hạn chế sử dụng radar (tránh bị phát hiện) xuyên qua hệ thống phòng không của Liên Xô và tấn công các mục tiêu bằng vũ khí tầm xa. Rafale rất mạnh về các loại cảm biến thụ động, giúp nó có thể di chuyển rất 'yên lặng'.

Rafale là sản phẩm của tư duy quân sự độc lập với Mỹ, vốn có từ thời De Gaulle. Do đó, nó được thiết kế để có thể thực hiện rất nhiều loại nhiệm vụ khác nhau. Tuy vậy, chính do sự ôm đồm đó mà nó trở thành 1 loại vũ khí tuy có rất nhiều tính năng, nhưng không có cái nào thật sự vượt trội, và giá thành rất đắt (gần 100 triệu dollar). Đó là lí do cho đến nay chưa có nước nào đặt mua nó.

Và trong trường hợp MMRCA cũng không phải là ngoại lệ. Trước đó, Dassault đề nghị phương án nâng cấp Mirage 2000 mà Ấn độ đang sử dụng. Nhưng một lần nữa cái giá cao ngất 40-50 triệu dollar đã khiến Ấn độ từ chối. Dassault sau đó đưa ra Rafale. Nhưng rồi việc cũng không thành.

Trở lại với MMRCA, ban đầu yêu cầu của Ấn độ là các máy bay hạng nhẹ thay thế cho số Mig-21 về hưu. Nhưng rồi họ nâng yêu cầu lên thành hạng trung, lấp vào khoảng trống trong cơ cấu của IAF trong tương lai, với Su-30MKI là hi-end và dưới cùng là Tejas LCA, một loại chiến đấu cơ hạng nhẹ do Ấn độ tự thiết kế.

Thử điểm qua điểm mạnh yều của các đối thủ còn lại:

F-16, lô 70 là sự nâng cấp từ phiên bản "Chim ưng sa mạc" bán cho UAE, trang bị radar quét điện tử chủ động (AESA), đa năng, gọn nhẹ, với độ tin cậy cao, thời gian hoạt động và số lượng ấn tượng (4000 chiếc cho tới nay). Tuy vậy, nó hơi nhỏ so với yêu cầu 'hạng trung', và nó cũng là máy bay được Pakistan sử dụng.

Gripen, mới hơn so với F-16, giá hợp lý, khả năng cất và hạ cánh trên đường bộ thông thường. Tuy vậy, nó cũng khá nhỏ, tầm hoạt động nhỏ.

Mig-35, thực chất là một phiên bản cải tiến từ Mig-29. Do đó, nó có lợi thế do Ấn độ đang sử dụng Mig-29 và quen thuộc với nó. Nó có radar và hệ thống điện tử cải tiến, động cơ sử dụng cơ chế lực đẩy vector cho độ linh hoạt cao. Điểm mạnh nữa là người Nga luôn sẵn lòng chuyển giao công nghệ, không như phương tây. Điểm yếu là hiện nay Ấn độ không hài lòng lắm với một số hợp đồng quân sự với Nga, đặc biệt là vụ mua lại tàu sân bay. Ngoài ra, hiện nay nhà sản xuất Mig đang gặp rất nhiều khó khăn, uy tín bị ảnh hưởng nhiều và đội máy bay Mig của Ấn độ cũng không có độ tin cậy cao trong thời gian hoạt động.

Typhoon, là một máy bay chuyên về không đối không, nhưng đợt nâng cấp gần đây khiến nó trở thành 1 máy bay đa năng. Được coi là chỉ đứng sau F-22 và ngang ngửa Su-30. Tuy vậy, giá thành cao, hơn 100 triệu dollar.

F-18E/F Super Hornet, trang bị radar AESA, cộng với khả năng chia sẻ thông tin, cho phép nó đóng vai trò như kẻ chỉ điểm, phối hợp hoạt động các máy bay khác. Nó còn có thể hoạt động trên tàu sân bay. Nó có thành tích tác chiến thực tế tốt. Ngoài ra nó còn có phiên bản tác chiến điện tử Growler rất ấn tượng. Điểm yếu là giá thành khá cao, khả năng cơ động không linh hoạt như Typhoon và Rafale.

Hình dưới đây là cơ cấu hiện tại của IAF, từ trái qua là Jaguar, Mirage 2000, Su-30, Mig-27, Mig-21 Bison.






20.4.09

Wedgetail + ScanEagle

Úc vừa thử nghiệm thành công việc dùng một máy bay AWACS (kiểm soát và cảnh báo sớm trên không) loại Wedgetail để điều khiển cùng lúc 3 chiếc ScanEagle, loại UAV thông dụng của hải quân. Điều này cho phép Wedgetail không chỉ kiểm soát vùng trời mà còn có thể đóng vai trò như một hệ thống tuần tra hàng hải rất hữu dụng

19.4.09

"Chén thánh" của công nghệ laser quân sự


Một trong những nguyên chính khiến cho vũ khí laser cho tới giờ vẫn chủ yếu tồn tại trong truyện tranh và phim giả tưởng là việc năng lượng trong tia laser bị các phần tử bụi, hơi nước trong không khí hấp thụ và làm giảm đáng kể tầm hoạt động của nó. Để khắc phục, người ta phải làm sao điều chỉnh được bước sóng của tia laser phù hợp với điều kiện môi trường bên ngoài, khi đó hao phí năng lượng sẽ giảm.

Bước sóng của tia laser phụ thuộc vào nguồn phát. Một số sử dụng tinh thể hồng ngọc, 1 số sử dụng các hợp chất hóa học. Vấn đề là mỗi nguồn phát chỉ cho ra một bước sóng nhất định.

Công nghệ laser electron tự do, FEL, hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề này, vì nó không sử dụng 1 nguồn phát cụ thể nào. Nó sử dụng những luồng electron được gia tốc để kích thích quá trình phản ứng dây chuyền tạo ra tia laser. Nó có thể tạo ra tia laser ở nhiều bước sóng khác nhau trong 1 thời gian rất dài. Do đó mà FEL được gọi là chiếc chén thánh của công nghệ laser.

Tiến trình nghiên cứu FEL mới ở bước đầu. Năm 2004, nó mới đạt mức công suất 10kW. Thứ hai tuần rồi, Hải quân Mỹ vừa ký một hợp đồng với Raytheon và Boeing để tạo ra thiết bị FEL cho mức công suất 100kW, được coi là mức chuẩn của laser dùng trong quân sự. Hải quân dự tính sử dụng FEL thay cho hệ thống phòng thủ Phalanx.