22.2.12

Rafale hồi sinh từ chiến thắng ở Ấn Độ

Vừa qua nước Pháp vừa giành được một hợp đồng quân sự MMRCA khổng lồ trị giá hơn 10 tỷ dollar của Ấn Độ với chiến đấu cơ Rafale. Chiến thắng này là một bước ngoặt lớn đối với loại máy bay ấn tượng nhưng kém may mắn này. 


MMRCA


MMRCA là gói thầu của Ấn Độ mua 126 chiến đấu cơ đa năng hạng trung. Trong cơ cấu của không quân Ấn Độ chúng sẽ nằm giữa chiến đấu cơ  chủ lực Su-30MKI và chiến đấu cơ hạng nhẹ LCA do Ấn Độ tự phát triển. Có trị giá hơn 10 tỷ dollar, và có thể được ký tiếp với tổng giá trị lên đến 20 tỷ dollar, đây là một trong những hợp đồng quốc phòng lớn nhất thế giới thời gian qua. Trước đây Ấn Độ hầu như chỉ mua vũ khí của Liên Xô-Nga, nhưng gần đây nước này đã đa dạng hoá nguồn cung của mình, và mua rất nhiều vũ khí của phương Tây.


Ban đầu có tất cả 6 đối thủ cạnh tranh với nhau: Mig-35 của Nga, F-16 và F-18E/F của Mỹ, Typhoon của liên doanh Anh-Đức-Ý-Tây Ban Nha, Rafale của Pháp, và Gripen của Thuỵ Điển. Điều kỳ lạ là vào năm 2009, Ấn Độ từng tuyên bố loại Rafale ra khỏi danh sách này, cho dù khi đó quá trình đánh giá vẫn chưa hoàn tất. Thế nhưng sau đó Rafale lại được đưa trở lại cuộc đấu thầu, trở thành 1 trong 2 lựa chọn trong danh sách rút gọn, cùng với Typhoon, và trở thành người chiến thắng. MMRCA có thể coi là một ví dụ tiêu biểu cho sự lộn xộn và hay thay đổi trong các hợp đồng quốc phòng của Ấn Độ, vốn thường là nạn nhân của nạn tham nhũng và quản lý kém. Ngay cả ‘chiến thắng’ của Rafale vẫn chưa chắc chắn hoàn toàn, ít nhất là trên giấy tờ, vì chưa có hợp đồng nào chính thức được ký. Quá trình đàm phán để chốt lại hợp đồng có thể kéo dài vài tháng nữa. 



Hình 1 - Cơ cấu hiện tại của không quân Ấn Độ, từ trái qua là Jaguar, Mirage 2000, Su-30, Mig-27, Mig-21.


Dù sao người Pháp vẫn có quyền mở sâm banh khi mà hợp đồng béo bở này đã cứu cho Rafale khỏi nguy cơ bị ngừng sản xuất vì thiếu đơn hàng. Cho đến nay Rafale vẫn là loại chiến đấu cơ duy nhất của các nước phương Tây không nhận được đơn hàng xuất khẩu nào, ngoại trừ F-22 bị chính phủ Mỹ cấm xuất khẩu. 


Sau đây là tóm lược về các bại tướng của Rafale, và các điểm mạnh, điểm yếu của chúng. 


Mig-35


Lợi thế của Mig-35 là Ấn Độ đang sử dụng Mig-29, trong khi trên thực tế Mig-35 là một phiên bản nâng cao của Mig-29, được nhà sản xuất xem như một chiến đấu cơ thuộc thế hệ 4+. Ngoài ra Ấn Độ cũng vừa chọn Mig-29K, phiên bản hải quân của Mig-29, để sử dụng trên tàu sân bay của mình. Như vậy nếu chọn Mig-35, Ấn Độ có thể đơn giản hoá được các yêu cầu về hậu cần, trang thiết bị, huấn luyện. Ngoài ra, Nga (Liên Xô) vẫn luôn là nhà cung cấp vũ khí truyền thống của Ấn Độ. 


Điểm yếu lớn nhất của Mig-35 là nó vẫn ở trong giai đoạn phát triển, chưa từng được đưa vào sản xuất hàng loạt. Ngay cả Nga cũng không quan tâm lắm đến mẫu máy bay này. Bên cạnh đó, những năm gần đây tình hình của Mikoyan, nhà sản xuất dòng Mig huyền thoại, không được sáng sủa lắm. Trong khi người anh em Sukhoi kiếm được rất nhiều hợp đồng xuất khẩu với dòng Su-27/30 thì Mikoyan phải nhờ sự trợ giúp của chính phủ Nga để thoát cảnh phá sản. Thậm chí một số lãnh đạo của hãng này đã bị truy tố hình sự vì tham nhũng. Do đó chọn Mig-35 là một canh bạc lớn cả về phương diện công nghệ và kinh tế.

Hình 2 - Mig-35


F-16 và F-18 E/F


2 ứng viên của Mỹ, F-16 và F-18 E/F, có chung một điểm bất lợi lớn là  Mỹ rất hạn chế việc chuyển giao công nghệ, trong khi đây lại là một trong những yêu cầu chính của Ấn Độ. MMRCA không chỉ đơn thuần là một hợp đồng mua máy bay mà Ấn Độ còn muốn nhân đó để phát triển năng lực chế tạo máy bay của riêng đó. 


Đó là lí do vì sao trong số 126 máy bay mà phía Pháp trúng thầu, chỉ có 18 chiếc là được nhập nguyên chiếc. 108 chiếc còn lại sẽ được lắp ráp tại Ấn Độ. Thậm chí phía Pháp sẽ phải tái đầu tư 50% giá trị hợp đồng trở lại vào ngành công nghiệp quốc phòng của Ấn Độ. Mỹ hiếm khi đồng ý với những điều kiện như vậy.


F-18E/F Super Hornet được xếp vào thế hệ 4+, và là một máy bay đa năng thực thụ, có sự cân bằng khá tốt giữa khả năng tác chiến trên không và đối đất. Nó còn có thể hoạt động từ tàu sân bay. Super Hornet cũng được trang bị một số công nghệ ‘tàng hình’ để giảm thiểu tín hiệu radar phản xạ. 


Điểm mạnh của nó nằm ở các hệ thống điện tử cực kỳ tinh vi. Nó là một trong số ít các chiến đấu cơ hiện nay được trang bị công nghệ radar quét điện tử chủ động AESA, cùng với khả năng chia sẻ thông tin vượt trội, cho phép nó có thể tự mình tấn công mục tiêu hoặc chỉ điểm cho các máy bay khác tiêu diệt mục tiêu. Một trong những điểm yếu của nó là khả năng cơ động trên không hạn chế so với một số các đối thủ khác.

Hình 3 - F-18 E/F Super Hornet


F-16 là loại chiến đấu cơ được sử dụng rộng rãi nhất tính từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, với hơn 4,000 chiếc. Điểm mạnh nhất của F-16 là nó đã được sử dụng trong một thời gian dài, cả trong thời bình lẫn chiến tranh, nên có độ tin cậy cao. Phiên bản mà Mỹ đề nghị bán cho Ấn Độ cũng được trang bị công nghệ radar quét điện tử chủ động AESA. Tuy vậy thiết kế ban đầu của F-16 đã có tuổi đời hơn 40 năm. Cho dù đã trải qua nhiều phiên bản nâng cấp thì nó vẫn có những hạn chế không thể khắc phục được so với những thiết kế mới hơn. 

Hình 4 - F-16 phiên bản Desert Falcon của Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất, phiên bản mới nhất của loại máy bay này
Gripen


Giá thành là điểm mạnh nhất của Gripen, ứng viên đến từ Thuỵ Điển. Song kích thước của nó quá nhỏ, gần giống một chiến đấu cơ hạng nhẹ hơn. Ngoài ra, tầm bay và sức tải của nó cũng khá thấp. Nói chung Gripen phù hợp với những quốc gia có diện tích nhỏ, trung bình như Thụy Điển hơn là 1 quốc gia rộng lớn như Ấn Độ. Hơn nữa, so với các quốc gia còn lại có máy bay tham gia đấu thầu MMRCA, Thụy Điển là nước có ít ảnh hưởng chính trị nhất, một yếu tố quan trọng với mọi hợp đồng quốc phòng. 

Hình 5 - Gripen 


Typhoon


Typhoon nằm trong số những chiến đấu cơ được xếp vào thế hệ 4+. Nếu tính về khả năng tác chiến không đối không thì Typhoon được xem như ngang ngửa với với Su-30 và chỉ đứng dưới F-22. Typhoon cũng được xem là 1 máy bay ‘bán tàng hình’, nghĩa là nó được thiết kế để giảm thiểu tối đa khả năng bị radar phát hiện, mặc dù chưa được đến mức như các máy bay ‘tàng hình’ thực thụ. Diện tích phản xạ radar của Typhoon tương đương 0.05 mét vuông, chỉ bằng 1 nửa của Rafale, nhưng vẫn gấp 5 lần so với F-117A. 


Khả năng cơ động của Typhoon cũng rất đáng nể, nó có thể thực hiện ở tốc độ siêu âm những động tác vận động phức tạp mà các máy bay khác chỉ có thể thực hiện ổ vận tốc thấp. Đặc biệt, Typhoon là máy bay thứ 2, sau F-22, có vận tốc hành trình siêu âm. Thông thường, khi các chiến đấu cơ muốn đạt vận tốc siêu âm sẽ phải sử dụng chế độ đốt hậu. Khi đó luồng phản lực  sẽ được hòa trộn với nhiên liệu và đốt thêm 1 lần nữa. Chế độ này rất tiêu tốn nhiên liệu, và tỏa nhiệt lượng rất lớn, có thể làm tan chảy động cơ. Vì vậy các chiến đấu cơ chỉ có thể duy trì chế độ đốt hậu trong vài phút.


Một máy bay có vận tốc hành trình siêu âm có thể bay nhanh hơn vận tốc âm thanh mà không cần phải đốt hậu. Typhoon khi đang ở vận tốc gần vận tốc âm thanh chỉ cần đốt hậu trong 1 thời gian ngắn để tạo đà khi vượt bức tường âm thanh, sau đó nó có thể duy trì vận tốc siêu âm ở chế độ hoạt động bình thường. Khả năng này tuy chưa bằng F-22, có thể vượt tường âm thanh và duy trì vận tốc siêu âm hoàn toàn không cần đốt hậu, nhưng đã vượt hơn so với các chiến đấu cơ khác trên thế giới.


Điểm yếu lớn nhất của Typhoon là nó được thiết kế chủ yếu cho vai trò không đối không, thay vì một máy bay đa năng. Những gói nâng cấp mới cũng có thể bổ sung cho nó khả năng tấn công mục tiêu mặt đất. Tuy nhiên quá trình phát triển và thực hiện những gói nâng cấp này không được suôn sẻ lắm, chủ yếu do vấn đề tài chính. Ngoài ra giá thành cao cũng là 1 bất lợi cho Typhoon. 



Hình 6 - Hai chiếc Typhoon của không quân Đức


Rafale


Rafale là đỉnh cao của công nghệ hàng không Pháp khi thay thế cho các thế hệ Mirage nổi tiếng từ những năm 90 của thế kỷ trước. So với các đồng minh châu Âu khác của Mỹ, Pháp duy trì một chính sách quân sự khá độc lập, do đó Rafale được thiết kế để không quân Pháp có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau mà không phải phụ thuộc vào người Mỹ. Được tích hợp những công nghệ tiên tiến nhất thời điểm ra đời, Rafale được xem là một chiến đấu cơ đa nhiệm thế hệ 4+. 


Từ khi xuất hiện vào những năm 90, Rafale đã trở thành một mốc son của công nghệ hàng không Pháp, thay thế cho dòng Mirage nổi tiếng. Rafale tích hợp những công nghệ mới nhất thời đó về radar quét điện tử, vật liệu composite, khí động học, tác chiến điện tử…Rafale trở thành một máy bay đa năng thế hệ 4+ với rất nhiều tính năng ưu việt.


Thế hệ 4 gồm những chiến đấu cơ ra đời trong những năm cuối của Chiến tranh lạnh như F-15, F-16, Mig-29, Su-27. Thế hệ 4+ ra đời sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, hiện đại hơn thế hệ 4, tuy chưa bằng được thế hệ thứ 5, như F-22. Rafale cũng được xếp vào loại máy bay bán tàng hình, với diện tích phản xạ radar tương đương 0.1 mét vuông. Bề mặt máy bay được phủ hỗn hợp sợi carbon và sợi Kevlar (vật liệu trong áo chống đạn). Hợp kim titan và nhôm-lithium cũng được sử dụng nhiều trong cấu trúc máy bay để giảm trọng lượng. 


Rafale có 3 phiên bản chính: C là loại chuyên dùng không đối không, B là máy bay ném bom chiến đấu, M là loại dùng trên tàu sân bay. Rafale là một máy bay khá nhỏ nhưng sức chở đáng nể, với khoảng 10 tấn. Khi không có nhiên liệu hay vũ khí, nó nặng hơn F-16C 1.5 tấn, nhưng trọng lượng cất cánh tối đa của nó thì hơn tới 5 tấn. Nó có thể mang theo rất nhiều loại vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Các loại trang bị chính của nó gồm:

- Tên lửa không-không MICA, phiên bản trang bị đầu dẫn hồng ngoại, nó có khả năng nhận thông tin cập nhật về mục tiêu từ máy bay mẹ và tính năng cơ động rất tốt.

- Bom bay AASM, tầm tối đa 50km, dẫn đường bằng GPS, kết hợp cảm biến hồng ngoại.

- Tên lửa hành trình Storm Shadow, tầm 250km, dẫn đường bằng GPS, radar địa hình, hồng ngoại.

Ngoài ra nó còn có thể được trang bị hầu hết các loại vũ khí của các thành viên NATO khác.

Hình 7 - Một chiếc Rafale M của hải quân Pháp hạ cánh xuống tàu sân bay USS Eisenhower 


Rafale có thiết kế cánh tam giác, chi tiết tiêu biểu cho các dòng máy bay của hãng Dassault, với 2 cánh phụ phía trước cánh chính. Đây là thiết kế tiêu biểu cho các dòng chiến đấu cơ mới của châu Âu. Cả 2 Typhoon và Gripen cũng sử dụng thiết kế cánh phụ để tăng khả năng cơ động. Rafale có thể thực hiện những động tác vận động trên không đạt đến giới hạn gấp 11 lần gia tốc trọng trường. Tốc độ tối đa của nó 2125km/h, tầm hoạt động 1850 km, trần bay 17km. 


Rafale có một hệ thống điện tử khá ấn tượng. Radar quét điện tử thụ động của Rafale có thể theo dõi 8 mục tiêu cùng lúc. Máy tính sẽ tự động phân tích, xác định mức độ ưu tiên của từng mục tiêu. Radar cũng có thể được dùng để quét và tái tạo hình ảnh 3 chiều của địa hình mặt đất bên dưới, cho phép Rafale bay ở độ cao thấp, bám sát địa hình mặt đất. Bay sát mặt đất là chiến thuật chính của không quân Pháp để xuyên thủng hệ thống phòng không của Liên Xô trong trường hợp có chiến tranh xảy ra tại châu Âu. Radar của Rafale có thể đồng thời hoạt động ở cả chế độ quét tìm mục tiêu trên không và quét mặt đất. 

Hình 8 - Hiện nay Pháp là quốc gia duy nhất sử dụng Rafale


Mũi máy bay có gắn thiết bị cảm biến hồng ngoại OSF, dùng để phát hiện bức xạ nhiệt từ các máy bay khác, nếu như radar bị vô hiệu hóa. Thực tế, nó gồm 2 cảm biến: cảm biến nhiệt tầm xa, dùng để xác định nguồn phát nhiệt. Và cảm biến hình ảnh tầm gần, cho phép phóng lớn hình ảnh của mục tiêu lên màn hình để phi công có thể xác định mục tiêu bằng mắt thường, giúp giảm nguy cơ bắn nhầm đồng đội.

Hình 9 - OSF được gắn ngay trước buồng lái của Rafale. Bên trái là cảm biến tầm xa, bên phải là cảm biến tầm gần


Hệ thống tác chiến điện tử Spectra là niềm tự hào của Rafale, nó là một phần trong tính năng 'bán tàng hình' của Rafale. Nó bao gồm các bộ phát hiện tín hiệu vô tuyến, cảm biến phát hiện tên lửa, cảm biến cảnh báo laser, và bao phủ 360 độ quanh máy bay. Các bộ phát hiện tín hiệu có thể xác định góc tới của tia radar với độ chính xác chưa tới 1 độ. Spectra còn có tính năng gây nhiễu chủ động với độ chính xác cao nhắm vào nguồn phát radar.


Tuy vậy, tính năng độc đáo nhất của Spectra là 'triệt tiêu tín hiệu chủ động". Theo đó, khi máy bay bị đối phương chiếu radar vào, nó sẽ phát ra một tín hiệu mô phỏng tín hiệu radar đối phương bị phản xạ lại, nhưng lệch 1 nửa bước sóng, do đó nó sẽ triệt tiêu với tính hiệu thật và radar đối phương không nhận được gì. Cơ chế này cũng tạo ra rất ít năng lượng, giúp máy bay khó bị phát hiện hơn.

Một đặc tính nữa của Rafale là khả năng tổng hợp cảm biến. Theo đó, thông tin từ tất cả các nguồn cảm biến: radar, OSF, Spectra…sẽ được tổng hợp, trộn chung lại và hiển thị ra một màn hình duy nhất, cung cấp một góc nhìn toàn cảnh 360 độ với tất cả thông tin cần thiết. Buồng lái được trang bị các màn hình cảm ứng lớn, với diện tích hiển thị 160 inch vuông, chỉ thua 180 inch vuông của F-22. Nó còn có điều khiển bằng giọng nói. Thông tin có thể được hiển thị ngay trên kính của mũ bảo hiểm, cho phép phi công có thể theo dõi và khóa mục tiêu chỉ bằng cách xoay đầu.

Các điểm chính trong chiến lược QS mới của Mỹ

Chiến lược quân sự mới của Mỹ vừa được công bố sẽ có những tác động to lớn không chỉ với nước Mỹ mà còn trên phạm vi toàn cầu trong thời gian tới. Hãy cùng tóm lược các thay đổi lớn mà chiến lược này có thể đem đến. Hai điểm chính xuyên suốt chiến lược này là tái định vị ưu tiên về lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương và thích ứng với việc ngân sách quốc phòng bị cắt giảm. 


Cuộc chiến chống khủng bố


Chiến lược mới khẳng định “trong tương lai gần, nước Mỹ vẫn sẽ tiếp tục chủ động chống lại các nguy cơ” gây ra bởi chủ nghĩa khủng bố. Trong đó nhiệm vụ cụ thể là “làm rối loạn, vô hiệu hoá, và đánh bại hoàn toàn Al-Qaeda và ngăn không cho Afghanistan trở lại thành thiên đường của các tổ chức khủng bố”. Việc dùng cụm từ “trong tương lai gần” cho thấy Mỹ đã dần đưa cuộc chiến chống khủng bố ra khỏi vị trí ưu tiên cao nhất trong chiến lược quân sự của mình. Việc Bin Laden bị tiêu diệt và Mỹ ấn định thời gian biểu triệt thoái khỏi Afghanistan có thể là những sự kiện đánh dấu sự kết thúc của mô hình “chiến tranh toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố” mà Mỹ theo đuổi từ sau vụ 11/9 cho tới nay. 


Tất nhiên, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục chống khủng bố, nhưng chỉ bằng các chiến dịch quy mô nhỏ trong trường hợp cần sử dụng biện pháp quân sự, không phải bằng chiến tranh toàn diện như tại Aghanistan hay Iraq nữa. Theo đó, quân đội Mỹ cũng sẽ không còn hướng tới việc “thực hiện những chiến dịch bình ổn an ninh lớn và lâu dài” nữa. Có thể xem đây là do sự kết hợp của tình hình ngân sách bị cắt giảm và dư âm của cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan. 


Trong cả 2 cuộc chiến đó, giai đoạn đầu diễn ra rất nhanh chóng, quân đội Mỹ dễ dàng đánh bật chế độ cầm quyền Saddam Hussein và Taliban. Nhưng khoảng thời gian sau đó, khi Mỹ chịu rất nhiều tổn thất khi phải đóng quân lâu dài để đảm bảo an ninh, hỗ trợ quá trình xây dựng chính quyền mới. Quá trình này tiêu tốn không chỉ nguồn lực cho các hoạt động quân sự mà còn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, việc làm...


Thay đổi trọng tâm ưu tiên 


Thay đổi được chú ý nhất trong chiến lược này là việc Mỹ sẽ “...hướng trọng tâm trở về lại khu vực châu Á - Thái Bình Dương do các nhu cầu thực tế...”. Các nhu cầu thực tế ở đây được định nghĩa là “...những lợi ích kinh tế và an ninh của nước Mỹ gắn liền với sự phát triển của vòng cung Đông Á - Tây Thái Bình Dương - Nam Á - Ấn Độ Dương...”


Trong đó Mỹ nêu đích danh Trung Quốc là “...một cường quốc khu vực có tiềm năng gây ảnh hưởng lên các lợi ích an ninh, kinh tế của nước Mỹ...”. Như vậy tuy không xem Trung Quốc là đối thủ như đối với Liên Xô trong Chiến tranh lạnh, Mỹ cũng đã công khai xem Trung Quốc là một đối tượng cần được quan tâm đặc biệt trong chiến lược quân sự mới của mình. 


Đặc điểm địa lý khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và yêu cầu phải kiềm chế Trung Quốc đòi hỏi sử dụng chủ yếu là không quân và hải quân, ngược với 2 cuộc chiến lớn vừa qua của Mỹ ở Afghanistan và Iraq. Vì vậy quân đội Mỹ sẽ phải hy sinh các lực lượng trên bộ. Lục quân và thuỷ quân lục chiến sẽ bị cắt giảm 100,000 người. Đổi lại, hải quân Mỹ vẫn sẽ có thể duy trì 11 tàu sân bay hạt nhân hạng nặng của mình. Những tàu sân bay này vẫn luôn là biểu tượng cho sức mạnh quân sự của Mỹ. Tuy nhiên, ngay từ khá lâu trước khi có bản chiến lược mới này, đã có nhiều phỏng đoán về việc con số này trong tương lai sẽ bị giảm xuống 10, thậm chí 9 chiếc, để tiết kiệm chi phí. Việc giữ nguyên số tàu sân bay cho thấy quyết tâm của Mỹ trong việc ngăn chặn kế hoạch mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này. 


Để cân bằng với sự tăng cường ở Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ sẽ cần cắt giảm mạnh lực lượng tại châu Âu. Điều này cũng hoàn toàn hợp lý khi kể từ sau khi Liên Xô tan rã thì không còn mối đe doạ quân sự lớn nào đối với các đồng minh của Mỹ tại châu Âu. Lực lượng đồn trú thường trực của Mỹ tại châu Âu sẽ bị cắt giảm còn 1 nửa. Hiện nay vai trò thực tế của các căn cứ Mỹ tại đây chủ yếu để hỗ trợ các chiến dịch tại Trung Đông và Afghanistan.


Việc triệt thoái khỏi Iraq không có nghĩa là khu vực Trung Đông sẽ suy giảm tầm quan trọng trong chính sách quân sự của Mỹ. “...ngăn chặn chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Iran...đảm bảo cho an ninh của Israel...” vẫn là những mục tiêu chiến lược của nước này. Dầu mỏ và quan hệ đồng minh với Israel là 2 lí do chính gắn chặt quyền lợi của Mỹ với khu vực này, và chúng không thể thay đổi trong tương lai gần. Trung Đông và châu Á - Thái Bình Dương sẽ là 2 trọng điểm ưu tiên của chính sách quốc phòng Mỹ. 


Cắt giảm ngân sách quốc phòng và các hệ quả 


Một thay đổi lớn nữa liên quan đến chiến lược “Chiến tranh kép”. Chiến lược này được đề xướng sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc bởi tướng Collin Powell, tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ lúc bấy giờ. Theo đó, quân đội Mỹ sẽ phải có thể cùng lúc chiến đấu, và chiến thắng, trong 2 cuộc chiến tranh lớn. 


Mục đích chính thật sự đằng sau “Chiến tranh kép” là tránh việc ngân sách cho quốc phòng bị cắt giảm quá nhiều. Sự kiện Liên Xô sụp đổ đồng nghĩa với sự biến mất của đối thủ ngang tầm duy nhất của quân đội Mỹ. Các quốc gia khác khi đó đều có tiềm lực quân sự quá yếu so với Mỹ. Vì vậy khoản ngân sách khổng lồ hàng năm cho quốc phòng là không còn cần thiết. Nhờ có chiến lược “Chiến tranh kép”, ngân sách cho quân đội Mỹ tuy cũng bị cắt giảm so với Chiến tranh lạnh, nhưng không quá nghiêm trọng. 


Nhiều đời bộ trưởng quốc phòng liên tiếp đã tìm cách thay đổi chiến lược này nhưng không thành công. Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế vừa qua buộc Mỹ phải cắt giảm mạnh ngân sách cho quốc phòng trong những năm sắp tới, do đó chiến lược “chiến tranh kép” không còn phù hợp. Thay vào đó, theo chiến lược mới này thì “...ngay cả khi quân đội Mỹ đang tham chiến trong một cuộc chiến quy mô lớn, nó vẫn có thể ngăn cản một quốc gia gây hấn khác thực hiện mưu đồ của mình tại một khu vực khác trên thế giới, hoặc buộc quốc gia gây hấn đó phải trả 1 cái giá rất đắt...”


Như vậy, mục tiêu quân đội Mỹ hiện nay là chiến đấu, và chiến thắng, trong 1 cuộc chiến tranh quy mô lớn, thay vì 2 như trước đây, và cùng lúc đó có thể cầm chân đối phương nếu có 1 cuộc chiến tranh khác nổ ra. So sánh một cách dễ hiểu thì trước đây, quân đội Mỹ sẽ cần 1 nguồn lực là 2X, trong đó X là nguồn lực cần thiết để chiến thắng trong 1 cuộc chiến tranh lớn, thì sắp tới con số này sẽ còn khoảng 1.5X. Thay đổi này có nghĩa là trong tương lai Mỹ sẽ phải cân nhắc nhiều hơn khi sử dụng các biện pháp quân sự. 


Chiến lược mới kêu gọi chống lại việc “hy sinh mức độ sẵn sàng chiến đấu để duy trì quy mô quân đội như hiện nay”. Nói cách khác, trước viễn cảnh ngân sách quân sự bị cắt giảm, quân đội Mỹ chấp nhận giảm số lượng để đảm bảo chất lượng. 


Bên cạnh đó, quân đội Mỹ cũng sẽ “xây dựng lại khả năng sẵn sàng chiến đấu đối với những phương thức tác chiến đã bị xem nhẹ vì yêu cầu thực tế trong thập niên qua”. Yêu cầu thực tế được nói đến ở đây là các chiến dịch an ninh, chống phiến loạn tại Iraq và Afghanistan. Từ nay quân đội Mỹ sẽ tập trung trở lại vào khả năng chiến đấu với các quân đội chính quy lớn, ví dụ như với Trung quốc. 


Sức mạnh hạt nhân


Chiến lược mới cho rằng “có thể duy trì khả năng răn đe hạt nhân với một số lượng vũ khí hạt nhân ít hơn hiện nay”. Điều này có nghĩa là sắp tới Mỹ sẽ tiếp tục thu nhỏ quy mô lực lượng hạt nhân của mình. Hiện nay mỗi năm Lầu Năm Góc phải chi hơn 1 tỷ dollar để bảo quản, lưu trữ kho vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, mặc dù không được sử dụng trong thực tế thì chúng vẫn cần được nâng cấp, thay thế, với một cái giá không hề rẻ. Một ví dụ là dự án thay thế 3,000 đầu đạn hạt nhân loại trang bị cho các tên lửa trên tàu ngầm hạt nhân. Được đề xuất cách đây 4 năm, nó dự kiến tiêu tốn đến 100 tỷ dollar. Do đó quân đội Mỹ quyết định vẫn giữ lại các đầu đạn cũ và chỉ nâng cấp chúng. Hiện nay Mỹ còn khoảng 7,000 đầu đạn hạt nhân các loại, Nga cũng có số lượng tương tự. Trong 20 năm qua, 2 cường quốc này đã loại bỏ hơn 15,000 đầu đạn thông qua các hiệp ước giải trừ hạt nhân. Mục tiêu của 2 nước là giảm số lượng đầu đạn ở mỗi nước xuống còn 2,000 đơn vị.