7.12.11

Cùng nhìn lại sự kiện Bin Laden bị tiêu diệt

10 năm truy lùng

Mỹ đáng lẽ đã có thể bắt được Bin Laden không lâu sau vụ 11/09, khi Bin Laden bị bao vây trong vùng núi Tora Bora, tháng 12 năm 2001. Khi đó khoảng hơn 2,000 lính Afghanistan được hỗ trợ của một nhóm nhỏ các đơn vị đặc nhiệm của Mỹ, Anh, Đức bao gồm Delta Force, SBS, KSK, lực lượng bán vũ trang của CIA tấn công vào khu vực đồi núi hiểm trở với nhiều hang động này. Người Mỹ khi đó có nhiều bằng chứng về việc Bin Laden đang có mặt trong khu vực, thậm chí đã xác định được vị trí tương đối nơi Bin Laden đang ẩn náu. Tình báo Mỹ khi đó bắt được giọng của Bin Laden qua sóng vô tuyến, trong đó Bin Laden tỏ vẻ tuyệt vọng, xin lỗi các thuộc hạ của mình vì để tình hình đến mức này, và cho phép các thuộc hạ của mình đầu hàng nếu không còn cách nào khác.

Tuy nhiên, cuối cùng thì Bin Laden vẫn thoát được sang Pakistan. Nguyên nhân chính là do lực lượng của Mỹ và đồng minh quá mỏng, chỉ gồm 1 số ít lính đặc nhiệm, những người tuy tinh nhuệ đến đâu cũng không thể theo dõi một khu vực đồi núi rộng lớn. Đa số lực lượng có mặt khi đó là lính Afghanistan, vốn có sức chiến đấu kém. Các chỉ huy chiến trường Mỹ khi đó liên tục yêu cầu cấp trên cho tăng cường thêm lực lượng, nhưng đều bị từ chối. Tại sao lại như vậy?

Nguyên nhân chính nằm ở chiến lược chung của Bộ trưởng BQP Mỹ khi đó là Ronald Rumsfeld. Ông này có chủ trương hạn chế tối đa số lượng lính Mỹ trên bộ, vì không muốn tạo cảm tưởng rằng Afghanistan đang bị nước Mỹ xâm lược. Trong vai trò BT BQP, Ronald Rumsfeld nổi tiếng với cách điều hành quân đội Mỹ giống như một doanh nghiệp. Ông luôn đề cao hiệu quả, làm sao đạt được mục tiêu với nguồn lực ít nhất. Khi lên kế hoạch cho chiến tranh Vùng Vịnh lần 2, các tướng lĩnh Mỹ đề nghị một chiến dịch gồm nửa triệu quân, Rumsfeld cương quyết chỉ sử dụng 1/3 con số này, và đã thành công.

Tương tự tại Afghanistan, cách thức tiến hành chiến tranh của người Mỹ từ đầu cuộc chiến cho tới lúc đó là đặc nhiệm Mỹ + hoả lực chính xác từ trên không + lực lượng mặt đất của các đồng minh người Afghanistan. Lực lượng đặc nhiệm đóng vai trò cầu nối, phối hợp hành động của Mỹ và các đồng minh Afghanistan (cụ thể là Liên minh phương Bắc). Lực lượng đặc nhiệm còn có nhiệm vụ chỉ điểm mục tiêu cho các vũ khí chính xác của không quân và hải quân Mỹ. Công thức này tỏ ra rất hiệu quả khi chỉ trong vòng 1 tháng chế độ Taliban đã sụp đổ. Tuy nhiên tại vùng đồi núi Tora Bora hiểm trở, công thức này đã không còn phù hợp và khiến người Mỹ vuột mất Bin Laden.

Sau khi thoát khỏi Tora Bora, Bin Laden vượt biên giới sang Pakistan, ẩn náu tại vùng đất của các bộ lạc Pashtun và biến mất. Người Mỹ từ đó mất dấu Bin Laden. Sau đó, Mỹ ưu tiên lực lượng sang cho cuộc chiến Iraq, một số nhân sự thuộc bộ phận chuyên trách truy lùng Bin Laden được chuyển sang công tác khác. Trên thực tế, trong nhiệm kì của TT Bush, mức độ ưu tiên của việc truy tìm cá nhân Bin Laden càng ngày càng giảm.  Chính sách này dựa trên nhận định rằng do Al Qaeda càng lúc càng bị phân tán nên tầm quan trọng trên thực tế của Bin Laden cũng giảm theo.

Sự suy yếu của Al Qaeda

Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho tổ chức Al Qaeda bị phân tán trên phạm vi thế giới là do nó bị săn lùng tại mọi quốc gia mà nó có mặt. Afghanistan là quốc gia duy nhất mà Al Qaeda và chế độ cầm quyền, Taliban, là đồng minh của nhau, nhờ đó Al Qaeda có một hậu phương rộng lớn và an toàn. Tuy nhiên, chế độ Taliban nhanh chóng bị Mỹ đánh đổ sau vụ 11/9. Đối với các nước Hồi giáo khác, thì đa số là đồng minh của Mỹ (A rập Xê Út, Ai cập)  Ngay cả các nước xem Mỹ là kẻ thù cũng chống lại Al Qaeda vì nhiều lí do. Ví dụ, Iran là nước theo hệ phái Shia, đối nghịch với phái Sunni của Al Qaeda. Syria thì có chế độ cầm quyền theo tư tưởng thế tục và xem chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan nói chung là 1 trong những kẻ thù chính của chế độ mình. Trước vụ 11/9, Al Qaeda là một lực lượng thống nhất, có tính tổ chức cao, có khả năng thực hiện những chiến dịch lớn, phức tạp, như vụ tấn công tàu USS Cole, vụ đánh bom kép các toà đại sứ Mỹ tại Châu Phi và vụ 11/9. Tuy nhiên, sau khi TT Bush chính thức tuyên chiến với chủ nghĩa khủng bố, mà Al Qaeda là mục tiêu chính, thì tổ chức này bị săn lùng tại mọi quốc gia mà nó có mặt. Tổ chức này phải dành thời gian hơn cho việc tự bảo vệ mình thay vì phối hợp lên kế hoạch các vụ khủng bố quy mô. Do đó, có 2 sự thay đổi lớn trong cách thức Al Qaeda hoạt động. Thứ nhất, tại các nước phương Tây, Al Qaeda đóng vai trò thúc đẩy, truyền cảm hứng và cung cấp các chỉ dẫn cho các phần tử hoặc nhóm phần tử cực đoan nhỏ thực hiện những vụ tấn công riêng rẽ. Mặc dù những âm mưu này có ưu điểm là khó bị phát hiện nhưng lại mang tính nghiệp dư nên khả năng thành công rất thấp. Tiêu biểu là âm mưu đặt bom xe tại Quảng trường Thời đại, vụ bom giấu trong giày, trong đồ lót trên máy bay. Đặc điểm chung của những vụ này là những kẻ thực hiện có thừa nhiệt tình và quyết tâm nhưng lại thiếu kinh nghiệm và kiến thức cần thiết. Trong khi đó bản thân Al Qaeda càng ngày mang tính địa phương, hoạt động riêng lẻ tại những khu vực như tại Afghanistan, Iraq, Bắc Phi…Tiêu biểu nhất cho các nhánh Al Qaeda địa phương là Al Qaeda tại Iraq và Afghanistan.

Al Qaeda tại Afghanistan

Tại Afghanistan, sau khi bị lật đổ, tàn quân Taliban và Al Qaeda nhanh chóng tìm được hậu phương mới. Đó là vùng Warizistan thuộc Pakistan, tiếp giáp với Afghanistan. Vùng đồi núi hiểm trở này là lãnh địa của các bộ tộc Pashtun, và gần như là khu vực tự trị, ít chịu sự kiểm soát từ chính quyền trung ương Pakistan. Chúng ta sẽ nói chi tiết hơn về lịch sử phức tạp của khu vực này cũng như mối liên hệ giữa nhà nước Pakistan và chủ nghĩa khủng bố trong phần sau. Nhưng nói chung thì tại đây Al Qaeda có thể an toàn trước cả Mỹ lẫn chính quyền Pakistan. Từ đó, Al Qaeda có thể cùng Taliban thực hiện các vụ tấn công cả tại Afghanistan và Pakistan. Tuy nhiên không phải tất cả mọi thứ đều thuận lợi cho Al Qaeda.

Sai lầm lớn nhất của Al Qaeda là việc nó đã gây chiến với chính Pakistan. Theo ước tính, kể từ sau khi Pakistan trở thành đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, đã có hơn 30,000 người Pakistan, bao gồm cả dân thường và nhân viên an ninh, thiệt mạng do bạo lực gây ra bởi Al Qaeda hay Taliban. Việc này chỉ càng làm Al Qaeda bị xem là kẻ thù tại Pakistan, cho dù nước này có một lịch sử ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và đa số dân chúng không ưa gì Mỹ.

Và để trả đũa, chính quyền Pakistan thường tổ chức các chiến dịch quân sự lớn nhắm vào khu vực thung lũng Warizistan, cho dù trước kia chính quyền trung ương Pakistan nói chung luôn tôn trọng quyền tự trị của các bộ tộc tại đây. Điều này khiến nhiều bộ tộc quay ra chống lại Al Qaeda. Al Qaeda và Taliban trả đũa bằng việc ám sát các thủ lĩnh các bộ tộc có dấu hiện chống đối. Ngoài ra, việc Mỹ phát triển 1 mạng lưới tình báo rộng dày đặc tại đây khiến Al Qaeda luôn cảm thấy bất an và thường hành quyết nhiều dân địa phương mà Al Qaeda cho là người chỉ điểm cho Mỹ, nhưng trên thực tế đa số trường hợp nạn nhân bị giết nhầm. Những lối hành xử bạo lực vô tội vạ như vậy của AL Qaeda chỉ càng tạo thêm nhiều kẻ thù cho tổ chức này.    

Bên cạnh đó, động lực của Al Qaeda là ý thức hệ, với mục tiêu tiêu diệt những kẻ 'ngoại đạo'. Trong khi đó động lực của Taliban là quyền lực (lấy lại quyền kiểm soát Afghanistan). Còn đối với các bộ tộc Pashtun, mục tiêu chính của họ là duy trì được sự độc lập tương đối của khu vực này khỏi sự ảnh hưởng của chính quyền Pakistan. Chưa kể những khoản tiền thưởng khổng lồ mà Mỹ treo cho các lãnh đạo của Al Qaeda cũng biến tổ chức này trở thành 1 mục tiêu ngay trong vùng hậu phương của mình.

Ngoài ra không thể không kể đến những xung đột về văn hoá, sắc tộc. Các thành viên của Al Qaeda đa số là dân A rập, trong đó các lãnh đạo thường là những người thuộc tầng lớp có học thức, khá giả. Những người này xem dân địa phương, những bộ tộc Pashtun, như những kẻ thô lỗ, nghèo rớt và vô học. Thêm nữa, Al Qaeda tiêu biểu cho dòng tư tưởng Hồi giáo cực đoan, không chỉ với những 'kẻ ngoại đạo' mà còn với chính những người Hồi giáo khác. Al Qaeda tìm cách áp đặt các giá trị, lối sống hà khắc lên các bộ tộc Pashtun.

Người Pashtun có tính độc lập cao, trong lịch sử họ đã từng mong muốn có một quốc gia cho riêng mình, và không muốn chịu sự kiểm soát của bất cứ ai và luôn phản kháng rất mạnh với các thế lực 'ngoại bang'. Al Qaeda lợi dụng điều đó để biến các bộ tộc thành đồng minh của mình chống lại kẻ ngoại xâm là người Mỹ. Tuy nhiên, chính Al Qaeda cũng tự biến mình thành những kẻ 'ngoại bang'. Do đó, khu vực thung lũng Warizistan không còn là vùng hậu cứ an toàn tuyệt đối cho Al Qaeda nữa, nhiều bộ tộc Pashtun quay sang chống lại Al Qaeda. Hiện nay tại Afghanistan, Al Qaeda thậm chí được Mỹ xem là ít nguy hiểm hơn so với tổ chức khủng bố của Haqqani, một thế lực mới tại khu vực này.

Al Qaeda tại Iraq

Giống như tại Afghanistan, quân đội Mỹ không gặp nhiều khó khăn trong việc lật đổ chế độ Saddam Hussein. Tuy nhiên tình hình an ninh sau đó trở nên cực kỳ tồi tệ, đỉnh điểm là vào khoảng thời gian 2007-2008. Phần lớn bạo lực đến từ việc Al Qaeda cấu kết với các phần tử của đảng Baath (đảng cầm quyền của Saddam Hussein trước đây). Ngoài việc có kẻ thù chung là nước Mỹ, cả Al Qeada và Baath đều thuộc hệ phái Sunni. Có thể nói, Iraq đã trở thành chiến trường chính giữa Al Qeada và Mỹ. Ban đầu, có vẻ như Al Qeada giành được ưu thế, khi làn sóng bạo lực đã gây ra hàng ngàn thương vong cho quân đội Mỹ, và biến Iraq thành một đất nước trên bờ vực nội chiến. Phong trào phản chiến trong lòng nước Mỹ dâng cao, trong lúc nhiều chính trị gia đảng Dân chủ tuyên bố rằng nước Mỹ đã thua trong cuộc chiến này và yêu cầu TT Bush nhanh chóng rút quân. Tuy nhiên Bin Laden không thể ngờ rằng tình thế này lại giúp đẩy nhanh quá trình tan rã của Al Qeada như 1 tổ chức thống nhất.

Cả Al Qaeda và các phần tử của đảng Baath đều không có khả năng giao chiến trực tiếp với quân đội Mỹ, do đó, vũ khí chính được chọn là các thiết bị nổ tự tạo (IED) đặt ở vệ đường, các vụ đánh bom xe, bom liều chết nhằm vào nhằm gây thương vong cho quân đội Mỹ cũng như nhằm gây bất ổn cho Iraq. Ngoài ra, cả Al Qaeda và Baath đều xem những người Iraq theo hệ phái Shia là kẻ thù giống như người Mỹ. Do đó có rất nhiều vụ khủng bố nhắm trực tiếp vào thường dân Shia, thậm chí các đền thờ, nơi hành hương cũng là mục tiêu.

Do đó đa số thương vong là dân thường, những người Hồi giáo thay vì lính Mỹ. Hậu quả là sự ủng hộ dành cho tổ chức này càng ít đi tại Iraq nói riêng và trong thế giới A rập nói chung. Theo thời gian, khi mà quân đội Mỹ phát triển và hoàn thiện các công nghệ và chiến thuật để giảm thiểu hiệu quả của các thiết bị nổ tự tạo, thì càng ngày tỷ lệ người Iraq là nạn nhân của Al Qaeda càng tăng. Kết quả là đa số người Iraq xem Al Qaeda là kẻ thù, kẻ cả cộng đồng người A rập Sunni. Al Qaeda chỉ còn có thể trông cậy vào một số ít những phần tử cực đoan nhất của đảng Baath.

Al Qaeda còn chịu nhiều tổn thất từ phía các lực lượng Mỹ. Năm 2007, TT Bush thể hiện quyết tâm ổn định tình hình tại Iraq bằng quyết định tăng viện thêm 20,000 quân và kéo dài thời gian đồn trú của lực lượng có sẵn. Người Mỹ áp dụng lại kinh nghiệm của Israel khi chống lại các tổ chức khủng bố Palestine. Đó tập trung vào đánh vào 'bộ não' của các tổ chức khủng bố. Đó không chỉ là các lãnh đạo, mà còn là những phần tử có kiến thức, chuyên môn về một lĩnh vực nào đó, như chế tạo bom, điện tử (chế tạo thiết bị kích nổ từ xa), thông tin, tài chính (như mọi hoạt động khác, khủng bố cũng cần có tiền để hoạt động), liên lạc…Việc tìm 1 người sẵn sàng 'tử vì đạo' không khó, tuy nhiên con số những người có học thức để vận hành các hoạt động thiết yếu trong tổ chức khủng bố là không nhiều. Các phần tử này giống như những bánh răng giúp tổ chức vận hành 1 cách trơn tru. Tiêu diệt các bánh răng này, tổ chức sẽ trở nên rối loạn. Mục tiêu đáng giá nhất bị tiêu diệt chính là Abu Musab al-Zarqawi, thủ lĩnh của Al Qaeda tại Iraq.

Ngay bản thân Bin Laden cũng nhận thấy 'danh tiếng' của Al Qaeda trong thế giới Hồi giáo bị tổn hại nghiêm trọng khi đa số nạn nhân chính là người theo đạo Hồi, đặc biệt là tại Iraq. Tuy nhiên, ngay cả  Bin Laden cũng không thể kiểm soát hoàn toàn Musab al-Zarqawi và các chiến dịch đẫm máu của tên này tại Iraq. Điều này cũng minh chứng cho sự phân rã trong hoạt động của Al Qaeda trên phạm vi thế giới. Trong số các thông tin tình báo thu nhận được từ vụ đột kích tiêu diệt Bin Laden cũng cho thấy Bin Laden từng có ý tưởng về việc đặt 1 tên mới cho tổ chức của mình vì cái tên Al Qaeda đã gắn với quá nhiều hình ảnh tiêu cực. Chỉ khoảng 2 tháng trước khi bị tiêu diệt, Bin Laden và phó tướng của mình, Zawahiri, đã kêu gọi các thành viên Al Qaeda kiềm chế trong việc giết chóc người Hồi giáo.

Chính vì những lí do trên, trong những năm cuối nhiệm kỳ của TT Bush, Bin Laden không còn nằm ở vị trí ưu tiên sô 1 nữa, do nhận định rằng Bin Laden giờ đây có ý nghĩa về biểu tượng hơn là 1 mối đe doạ thực tế với Mỹ. Các mục tiêu cấp bách hơn là ổn định tình hình an ninh Iraq, sau đó là đối phó với sự trỗi dậy của Taliban tại Afghanistan. Các nguồn lực của bộ phận chuyên trách săn lùng Bin Laden tại CIA dần được chuyển sang các nhiệm vụ khác.

Mục tiêu Bin Laden

Đến thời TT Obama, mục tiêu truy lùng Bin Laden lại được đặt lên hàng đầu. Để lần ra dấu vết của Bin Laden, giới tình báo Mỹ tiếp tục tập trung vào các 'bánh răng'. Trong trường hợp này là người giao liên tin cẩn của Bin Laden. Đối với các thủ lĩnh khủng bố bị truy lùng như Bin Laden, giao liên là 1 vị trí không thể thiếu, vì việc sử dụng bất kì thiết bị điện tử nào cũng sẽ rất dễ bị người Mỹ phát hiện. Thế nhưng tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, khi mà bản thân việc sử dụng giao liên cũng có rủi ro riêng của nó.

Trong quá trình thẩm vấn các phần từ Al Qaeda đang bị giam giữ, tình báo Mỹ bắt đầu biết đến sự tồn tại của người giao liên mà Bin Laden tuyệt đối tin tưởng trong việc truyền đạt các chỉ thị của mình. Năm 2004, Hassan Ghul, một thành viên cao cấp của Al Qaeda, bị bắt tại Iraq. Ghul cung cấp thêm thông tin về nhân thân của Kuwaiti, đặc biệt là việc Kuwaiti rất thân cận với Faraj al-Libi, chỉ huy trưởng tác chiến của Al Qaeda.

Tháng 5/2005, đến lượt al-Libi bị bắt. Khi bị thẩm vấn, al-Libi tuy thừa nhận sự tồn tại của người giao liên, nhưng lại bịa ra 1 cái tên khác. Tuy vậy, CIA biết chắc rằng al-Libi đang nói dối, và điều này càng khẳng định tầm quan trọng của Kuwaiti.

Phải mất vài năm trước khi CIA xác định được tên thật của Kuwaiti, Sheikh Abu Ahmed, 1 người Pakistan sinh ra tại Kuwait. Tuy vậy CIA vẫn không có bất kì manh mối nào về việc Ahmed đang ở đâu. Thậm chí một số nguồn tin còn cho biết Ahmed đã chết trong một cuộc giao tranh với quân đội Mỹ tại Afghanistan.

Đến giữa năm 2010, Ahmed mắc một sai lầm chết người khi liên lạc bằng điện thoại cho 1 đồng đảng. CIA có thể nghe trộm cuộc điện đàm này và lần đầu tiên có thể lần ra nơi ở của Ahmed. Tháng 8, 2010, Giám đốc CIA Panetta báo cho TT Obama biết CIA đã xác định được Abu Ahmed al-Kuwaiti. CIA bắt đầu theo dõi gắt gao mọi hoạt động của người này. Vệ tinh do thám Mỹ sau đó phát hiện chiếc xe của Kuwaiti ra vào khu nhà tại Abbottabad. CIA quyết định tập trung theo dõi chặt chẽ khu nhà này, sử dụng cả các đặc vụ tại chỗ và theo dõi trên không bằng máy bay không người lái tàng hình Sentinent.

Sau khi các quan chức tình báo xác nhận vị trí Bin Laden đang ẩn náu với độ tin cậy đến 80%, TT Obama quyết định bật đèn xanh cho chiến dịch tiêu diệt Bin Laden. Hai phương án chính là 1 cuộc không kích bằng vũ khí chính xác hoặc 1 cuộc đột kích bằng lực lượng đặc nhiệm. Phương án đầu bị loại bỏ vì TT Obama muốn có bằng chứng rõ ràng về việc Bin Laden đã chết. TT Obama cũng chỉ thị rằng Mỹ sẽ phải hành động 1 mình, không cho đồng minh Pakistan biết về kề hoạch.

Sau khi phương án dùng lực lượng đặc nhiệm được thông qua, một nhóm sĩ quan thuộc lực lượng đặc nhiệm DevGru của hải quân Mỹ được biệt phái sang CIA để lên kế hoạch tấn công. Đến ngày 29 tháng 3, kế hoạch được đệ trình lên cho TT Obama cùng các quan chức cao cấp. Lúc này vẫn còn nhiều luồng ý kiến khác nhau trong nội các của TT Obama. Đặc biệt phản đối mạnh mẽ kế hoạch là Bộ trưởng Quốc Phòng Robert Gates, do ông này từng được nghe trình bày về 1 chiến dịch tương tự, chiến dịch Eagle Claw giải cứu các con tin Mỹ tại Iran năm 1980, mà sau này đã thất bại. Gates ủng hộ việc dùng máy bay tàng hình B-2 ném bom vào khu nhà.

Tuy nhiên phía Mỹ không chắc rằng bên dưới toà nhà đó có boong-ke bí mật nào không. Không quân Mỹ tính toán rằng để chắc chắn xoá sổ toàn bộ khu nhà cũng như bất kì công trình ngầm nào, nếu có, nằm bên dưới sẽ cần đến 32 quả bom loại 1 tấn. Hoả lực ở quy mô như vậy sẽ san bằng toàn bộ khu dân cư xung quanh. Do đó TT Obama kiên quyết loại bỏ phương án này và chỉ thị DevGru bắt đầu luyện tập trên thực địa cho kế hoạch.

Việc tập luyện được bắt đầu từ ngày 10/4 và kéo dài trong 5 ngày tại Bắc Carolina. Đến ngày 18/4, đội đột kích di chuyển tới 1 địa điểm tập luyện mới ở Nevada trong 1 tuần. Lúc này việc tập luyện có sự tham gia của các trực thăng. Ngày 26/4, đội đột kích rời nước Mỹ trên 1 chiếc C-17 và đáp xuống sân bay Bagram, Afghanistan. Một ngày sau đó họ chi chuyển tới Jalalabad. Vào thời điểm này, khu vực Abbotabad gần như không có trăng vào ban đêm, rất thích hợp cho cuộc đột kích. Tuy nhiên điều kiện thuận lợi này chỉ kéo dài trong vài ngày nữa. Nếu không thể thực hiện cuộc tấn công trong khoảng thời gian này, người Mỹ sẽ phải đợi  thêm 1 tháng nữa trước khi chu kỳ mặt trăng trở lại. Do đó, sau khi tham vấn với các quan chức cao cấp 1 lần cuối, TT Obama chính thức cho phép chiến dịch diễn ra, phó đô đốc McRaven sẽ chọn thời điểm cụ thể. McRaven, giữ vị trí tư lệnh Bộ chỉ huy liên hợp các chiến dịch đặc biệt, thông báo rằng thời điểm đó sẽ là tối chủ nhật, ngày 1/5.

Sáng ngày 1/5, lúc 11h, nội các an ninh của TT Obama bắt đầu tập trung, đường truyền video trực tiếp nối giữa Nhà Trắng, trụ sở CIA, sở chỉ huy của phó đô đốc McRaven tại Afghanistan, Lầu Năm Góc và Đại sứ quán Mỹ tại Pakistan được thiết lập. Lúc 2 giờ chiều, TT Obama trở lại Nhà Trắng sau buổi chơi golf của mình.  

Chiến dịch 'Ngọn giáo thần Hải dương' 

Ngày 1/5/2011, vào lúc 11h đêm giờ địa phương, một đơn vị đặc nhiệm xuất kích từ sân bay Jalalabad, đông Afghanistan, hướng về phía biên giới Pakistan với sứ mệnh tiêu diệt Bin Laden. Trong đêm tối, đội đột kích di chuyển trên 2 trực thăng Black Hawk phiên bản đặc biệt tàng hình, bên trong là 23 lính đặc nhiệm DevGru, hay còn gọi là SEAL Team 6, của hải quân Mỹ, một người Mỹ gốc Pakistan làm phiên dịch viên, và 1 quân khuyển tên Cairo. Trên mỗi trực thăng còn bao gồm 2 phi công và 1 nhân viên phi hành.

Những thành viên đội đột kích đều là những người có kinh nghiệm dày dạn trong những chiến dịch chống khủng bố từ sau vụ 11/9/2001. Ít nhất 3 trong số đó từng tham gia vụ giải cứu thuyền trưởng tàu Maersk Alabame khỏi bọn cưới biển Somali. DevGru cũng từng thực hiện khoảng hơn 10 nhiệm vụ tối mật sâu bên trong lãnh thổ Pakistan. Tuy nhiên, đây là lần đột nhập sâu nhất, và cũng là nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn nhất.

45 phút sau khi đội đột kích xuất phát, 4 trực thăng Chinook MH-47 khác cũng rời Jalalabad. 2 trong số đó bay lượn vòng trong không phận Afghanistan, sát với biên giới Pakistan, bên trong là 25 lính DevGru. Đây là lực lượng phản ứng nhanh, hỗ trợ đội đột kích chính khi bị tấn công. 2 chiếc khác bay vào bên trong lãnh thổ Pakistan, đáp xuống một khu vực hoang vắng, với động cơ vẫn hoạt động, sẵn sàng di chuyển khi cần thiết. Một trong 2 chiếc đóng vai trò là máy bay tiếp nhiên liệu trên không. Chiếc còn lại chở theo các đơn vị y tế, thông tin...

Theo kế hoạch, cuộc đột kích sẽ diễn ra theo 2 hướng. Một trực thăng sẽ treo lơ lửng phía trên toà nhà để lính đặc nhiệm thả dẩy xuống tầng thượng và tấn công từ trên xuống. Trực thăng thứ 2 sẽ thả một đội khác xuống sân trong và đội này sẽ tấn công từ dưới lên. Một chiến thuật đột kích cổ điển và hiệu quả. Tuy nhiên, một trực thăng Black Hawk khi tiếp cận khu nhà đã va phải bức tường rào, và phải hạ cánh khẩn cấp bên ngoài khu nhà. Nguyên nhân có thể là do nhiệt độ cao trong đêm đó hơn dự báo. Nhiệt độ càng cao, mật độ không khí càng giảm, và do đó lực nâng tạo ra từ chong chóng máy bay càng giảm.

Để tránh 1 tai nạn tương tự, trực thăng thứ 2 cũng đáp bên ngoài khu nhà, và liên lạc yêu cầu 1 trong số các trực thăng Chinook dự phòng đến để hỗ trợ. Như vậy toàn bộ đội đột kích phải dùng chất nổ để phá bức tường bao quanh khu nhà để tiến vào bên trong. Nhóm thứ 1 gồm 12 lính đặc nhiệm trong chiếc trực thăng bị rơi, là những người đầu tiên tiến vào khu nhà. 3 trong số đó tách ra và tấn công vào nhà khách, nằm cách biệt khỏi khu nhà chính. Bên trong là người giao liên của Bin Laden, Abu Ahmed al-Kuwaiti cùng với vợ và 4 đứa con.  Tên này nhanh chóng bị tiêu diệt. 9 người còn lại tiếp tục phá 1 lớp cửa nữa để vào khu sân trong và tiến vào ngôi nhà chính. Ngay tại ngưỡng cửa, lính đặc nhiệm chạm trán với Abrar, em của Kuwaiti, đang cầm 1 khẩu AK-47. Abrar nhanh chóng bị hạ gục, cùng với vợ của mình, lúc này đang đứng cạnh chồng.

Nhóm lính từ trực thăng thứ 2 cũng vừa phá bức tường rào và tiến vào trong nhà, nhập chung với nhóm 9 người vào trước đó để lục soát toà nhà. Một cánh cửa thép lớn được lắp ở chân cầu thang dẫn lên tầng 2. Sau khi dùng chất nổ C4 để phá cửa, đội đột kích di chuyển lên cầu thang và thấy Khalid, một trong những con trai của Bin Laden, đang ở đầu kia của cầu thang, được trang bị AK-47 và bắn xuống. Lính đặc nhiệm bắn trả và tiêu diệt Khalid.

Cầu thang dẫn lên tầng 3 cũng được ngăn bằng 1 cửa thép. Sau khi phá lớp cửa này và di chuyển lên tầng 3, lính đặc nhiệm phát hiện Bin Laden đang thò đầu nhìn ra từ bên trong 1 căn phòng. Lính đặc nhiệm nổ súng nhưng Bin Laden kịp rút vào bên trong. Khi lính đặc nhiệm ập vào trong phòng, 2 người vợ của Bin Laden đứng chắn phía trước để che cho chồng mình. Một trong 2 người, Amal al-Fatah, hét lên và lao về phía cửa. Một lính đặc nhiệm nổ súng vào chân Amal, sau đó chồm đến ôm lấy cả 2 và đẩy ngã xuống đất, do lo ngại rằng 2 người vợ này có thể mang bom trong người. Nêu bom kích nổ thì cơ thể của người lính này có thể hấp thụ vụ nổ và bảo vệ cho những đồng đội phía sau.

Một lính đặc nhiệm khác tiến vào phòng và hạ gục Bin Laden bằng 2 phát súng, nhiều khả năng là từ 1 khẩu M4, hoặc HK 416. Phát súng đầu tiên nhắm vào ngực và phát thứ 2 vào ngay phía trên mắt trái Bin Laden. Qua radio, người lính đặc nhiệm này báo cáo về "Vì Chúa và đất nước - Geronimo, Geronimo, Geronimo, Geronimo, Geronimo EKIA, mục tiêu đã bị hạ".

Hai người vợ của được trói và dẫn xuống dưới nhà, trong lúc thi thể của Bin Laden được bỏ vào túi đựng xác. Lúc này chiến dịch đã diễn ra được 18 phút.  Trong 20 phút tiếp theo, đội đặc nhiệm sục sạo quanh căn nhà, thu thập tất cả các tài liệu, thiết bị nào có thể chứa thông tin hữu ích. Trong số đó có cả phim ảnh 'người lớn', một thứ thường được tìm thấy trong mọi cuộc đột kích tương tự.

Trong lúc đó, ở bên ngoài, người phiên dịch Pakistan đóng vai 1 cảnh sát địa phương và yêu cầu những người sống gần đó ở yên trong nhà và tắt đèn do 'một chiến dịch an ninh đang diễn ra'. Chi tiết này khiến cho trong thời gian đầu sau khi cuộc tấn công xảy ra, có giả thiết cho rằng chính quyền Pakistan đã được báo trước và cùng tham gia vào chiến dịch này. Nhưng thực tế thì điều này không đúng. Ngoài ra, bảo đảm an ninh vòng ngoài còn có chú chó Cairo và 4 đặc nhiệm trong nhóm ở trên chiếc trực thăng thứ 2. Theo kế hoạch, trong trường hợp đội đột kích gặp khó khăn trong việc tìm Bin Laden, Cairo sẽ được đưa vào trong để phát hiện các nơi ẩn nấp bí mật trong khu nhà.

Tất cả phụ nữ và trẻ em trong khu nhà được đưa ra ngoài sân để thẩm vấn nhanh, nhưng không có nhiều thông tin hữu ích. Lúc này 1 chiếc Chinook dự phòng cũng vừa đến, một lính đặc nhiệm từ chiếc Chinook này trích xuất mẫu tuỷ xương từ thi thể của Bin Laden để thực hiện phân tích AND. Sau đó xác Bin Laden được đưa lên chiếc Chinook.

Việc cuối cùng trước khi đội đột kích rời đi là phá huỷ chiếc trực thăng bị rơi. Lính đặc nhiệm dùng rìu phá huỷ các thiết bị trong buồng lái, sau đó đặt thuốc nổ tại những vị trí quan trọng như hệ thống điện tử, động cơ và cánh quạt chính. Sau một tiếng nổ lớn, phần lớn chiếc trực thăng bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn lại 1 phần đuôi máy bay.

Đội đột kích rời đi trên chiếc Black Hawk còn lại và chiếc Chinook dự phòng. Trước khi bay về Afghanistan, chiếc Black Hawk còn phải tiếp thêm dầu tại điểm hẹn bên trong lãnh thổ Pakistan. Toàn bộ trực thăng trở lại Jalalabad lúc 3 giờ sáng. Việc xác nhận sơ bộ danh tính của Bin Laden cũng được thực hiện tại chỗ bằng cách chụp ảnh, và một lính đặc nhiệm nằm cạnh xác Bin Laden để so sánh chiều cao. Phó đô đốc McRaven, Tư lệnh Bộ chỉ huy liên hợp các chiến dịch đặc biệt (JSOC), và giám đốc CIA tại Afghanistan đích thân chờ ngay tại đường băng để kiểm tra tại chỗ xác của Bin Laden. Sau đó nó được chuyển đến Bagram.

Ban đầu Mỹ hỏi ý A rập Saudi có muốn tiếp nhận xác Bin Laden không. Sau khi nước này từ chối, Mỹ quyết định sẽ thuỷ táng. Thi thể Bin Laden được 1 chiếc máy bay chong chóng lật V-22 chở từ Bagram ra tàu sân bay Carl Vinson và được thả xuống biển.

Ngày 6/5, vào cùng ngày mà Al Qaeda chính thức thừa nhận cái chết của Bin Laden, TT Obama và Phó TT Biden đến thăm và trao huân chương cho toàn bộ thành viên của chiến dịch, bao gồm cả chú chó Cairo, tại căn cứ Campbell, Kentucky.

Về tổng thể, ngoại trừ việc mất 1 máy bay, chiến dịch 'Ngọn giáo thần Hải dương' là 1 thành công lớn. Tuy vậy, ít người biết rằng bên cạnh đó, Mỹ cũng đã chuẩn bị một lực lượng quân sự khổng lồ, gồm 3 tàu sân bay, hàng trăm chiến đấu cơ, cùng hàng nghìn binh lính, tại Afghanistan và vịnh A rập sẵn sàng tham chiến nếu như đội đột kích phải đương đầu với quân đội Pakistan.

Trên thực tế Pakistan cho phép các lực lượng Mỹ hoạt động bên trong lãnh thổ của mình trong trường hợp đang truy đuổi các mục tiêu từ Afghanistan vượt biên sang Pakistan hay tiêu diệt các đầu não khủng bố đang ẩn náu trong lãnh thổ Pakistan với điều kiện Mỹ phải thông báo trước cho quân đội Pakistan về các hoạt động này. Việc Pakistan không được Mỹ báo trước trong vụ Bin Laden là minh chứng cho thấy sự dính líu sâu rộng của chính quyền Pakistan đối với các tổ chức khủng bố. Trong quá khứ, đã rất nhiều lần thông tin về các chiến dịch tương tự bị rò rỉ từ các nguồn cao cấp trong chính quyền Pakistan cho các tổ chức khủng bố. Điều này khiến Mỹ không thể tin tưởng vào chính đồng minh này. Vậy làm cách nào chủ nghĩa khủng bố lại có thể 'len lỏi' vào trong bộ máy chính quyền của Pakistan và mức độ nghiêm trọng của nó như thế nào?

Pakistan và 1 lịch sử của chủ nghĩa cực đoan

Tầm ảnh hưởng sâu rộng chủ nghĩa khủng bố trong lòng Pakistan có lịch sử lâu đời, thậm chí từ trước khi nhà nước Pakistan ra đời, và chịu ảnh hưởng lớn từ mối quan hệ giữa Pakistan và 2 nước láng giềng Ấn Độ và Afghanistan.

Như đã nói ở phần trên, các bộ tộc Pashtun là những chiến binh có truyền thống độc lập và kháng ngoại bang rất mạnh. Tuy vậy, người Pashtun không có tính cố kết cao. Một khi hiểm hoạ xâm lăng bị đẩy lùi, các bộ tộc lại quay ra kình chống lẫn nhau. Do đó họ không bao giờ thành lập được 1 nhà nước riêng.

Năm 1839, đế quốc Anh xân lược vùng đất của người Pashtun để mở rộng lãnh thổ thuộc địa Ấn Độ (bao gồm Ấn Độ và Pakistan ngày nay). Tuy vậy họ cũng không thể khuất phục hoàn toàn người Pashtun và chỉ chiếm được 1 phần, và phần đất đó cũng thường xuyên chứng kiến các cuộc nổ dậy, bạo loạn. Trong khi đó, phần đất còn lại của người Pashtun trở thành 1 phần của Afghanistan. Năm 1893, người Anh lập ra 1 đường biên gọi là Đường biên Durand để ngăn cách giữa Afghanistan và thuộc địa Ấn Độ (bao gồm phần lãnh thổ của người Pashtun mà Anh vừa chiếm được). Người Pashtun tuy vậy không công nhận đường biên này.

Năm 1947, Anh trao trả độc lập cho thuộc địa Ấn Độ, và cùng lúc phân chia nó thành 2 nước Ấn Độ và Pakistan. Phần đất của người Pashtun trước kia bị người Anh chiếm được giờ thuộc lãnh thổ của Pakistan. Tuy nhiên người Pashtun tại đây ngay từ đầu chưa bao giờ công nhận quyền cai trị của người Anh nên giờ họ cũng không công nhận mình là 1 phần của Pakistan và luôn có xu hướng li khai. Pakistan cũng gặp sự chống đối của người Pashtun đang cai trị Afghanistan vì vấn đế đường biên Durand. Khi Pakistan gửi đơn gia nhập LHQ vào 1947, nước duy nhất bỏ phiếu chống không phải là Ấn Độ, mà là Afghanistan.

Năm 1948, các lãnh đạo Hindu và Hồi giáo tại vùng Kashmir đạt được thoả thuận cùng đưa vùng đất này thành 1 nhà nước độc lập, thay vì sáp nhận vào Ấn Độ hoặc Pakistan. Giới lãnh đạo Pakistan, lo sợ trước xu hướng li khai của người Pashtun, không muốn Kashmir trở thành một tiền lệ. Do đó, Pakistan đã tạo nên một chiến dịch tuyên truyền về việc người Hindu hãm hại người Hồi giáo tại Kashmir, và khuyến khích chính những người Pashtun sang Kashmir để 'bảo vệ những người anh em Hồi giáo'. Bằng cách đó, Pakistan có thể đồng thời đạt được mục tiêu ngăn Kashmir độc lập và làm người Pashtun xao nhãng với mục tiêu ly khai của mình. Những lãnh đạo Kashmir phải chạy sang cầu cứu Ấn Độ và hứa rằng sẽ sáp nhận Kashmir vào Ấn Độ nếu nước này giúp đẩy lùi các chiến binh Pashtun.

Ấn Độ đồng ý và gửi quân vào Kashmir, Pakistan cũng phản ứng lại và gửi quân đội của mình, kết quả là cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan lần thứ 1 nổ ra. Tổng cộng 2 bên đã có 4 cuộc chiến, cùng vô số lần giao tranh nhỏ khác. Nhìn chung, Pakistan thường là bên thua cuộc, đặc biệt nặng nề là cuộc chiến năm 1971, khi mà gần 90,000 quân và dân thường Pakistan phải đầu hàng và bị bắt. Ấn Độ cũng là nước sở hữu vũ khí hạt nhân trước. Về mặt kinh tế, Ấn Độ cũng ngày càng bỏ xa Pakistan.

Từ những năm 70 của thế kỷ trước, giới lãnh đạo Pakistan nhận ra rằng không thể chiến thắng Ấn Độ bằng các phương thức chính thống, mà chỉ có thể dựa vào cách 'phi chính quy', tức là chủ nghĩa khủng bố. Pakistan tích cực hậu thuẫn và nuôi dưỡng các tổ chức khủng bố và tung vào quấy phá Ấn Độ.

Ngoài ra, việc này còn có ý nghĩa đối nội. Bản thân xã hội Pakistan luôn trong tình trạng bất ổn, trì trệ gây ra bởi nạn tham nhũng, bất tài của giới lãnh đạo. Tư tưởng Hồi giáo cực đoan được xem là phương thuốc để chống lại những sự 'suy thoái về đạo đức' này.

Cùng lúc đó tại Afghanistan, cuộc cách mạng do Liên Xô hậu thuẫn nổ ra và đưa 1 chính thể 'phi Hồi giáo' lên nắm quyền. Thế giới Hồi giáo cùng hợp lực để đánh đuổi những kẻ 'ngoại đạo' này, đặc biệt là sau khi Liên Xô đích thân gửi quân sang. Khi nhắc đến cuộc chiến này, người ta thường nghĩ rằng Mỹ là người ủng hộ chính cho các chiến binh mujahideen chống Liên Xô tại Afghanistan. Nhưng trên thực tế Pakistan mới là đạo diễn chính cho toàn bộ cuộc chiến, còn các nước A rập là những nước tài trợ tài chính chủ yếu.

Sau khi Liên Xô rút quân đã tạo ra một khoảng trống quyền lực tại Afghanistan. Đất nước này lại chìm vào nạn sứ quân, nội chiến. Pakistan để duy trì ảnh hưởng của mình tại đây đã dựng nên Taliban. Hạt nhân của Taliban chính là những hậu duệ của những người Pashtun trước kia được gửi sang chiến đấu ở Kashmir. Pakistan cũng hy vọng bằng cách dẹp tan các phe phái khác và chấm dứt nội chiến có thể đẩy nhanh quá trình hồi hương của hàng triệu người tị nạn Afghanistan tại Pakistan. Được tuyển chọn từ các trường dòng Hồi giáo tại Pakistan, những thành viên của Taliban đều có tư tưởng Hồi giáo rất cực đoan. Được sự ủng hộ của Pakistan, Taliban đánh bại các lực lượng khác và giành quyền kiểm soát phần lớn Afghanistan.

Sau vụ 11/09, Mỹ cho Pakistan 2 lựa chọn: hoặc Mỹ, hoặc Taliban. Pakistan, hay cụ thể là TT Musaraf đã chọn hỗ trợ Mỹ trong việc tiêu diệt Taliban. Tuy nhiên, mối liên minh này không hề êm ả.

Một mặt, cả Mỹ và Pakistan đều cần lẫn nhau. Đối với Mỹ, Pakistan là con đường vận chuyển hậu cần chính cho lực lượng Mỹ tại Afghanistan. Mỹ cũng cần sự đồng ý và hỗ trợ của Pakistan trong việc truy lùng và tiêu diệt Al Qaeda và Taliban tại vùng biên giới Pakistan - Afghanistan. Đối với Pakistan, việc từ chối hợp tác sẽ tương ứng với việc bị Mỹ xem là kẻ thù. Bên cạnh đó, viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ là rất cần thiết cho Pakistan, đặc biệt là đối với (cựu) TT Musaraf. Ông này lên nắm quyền do 1 cuộc đảo chính. Tại Pakistan, việc quân đội đảo chính chính quyền dân sự là điều không có gì mới. Tuy nhiên vấn đề là ông Musaraf lại tìm cách ở lại quá lâu, và do đó càng ngày càng bị phản đối. Vì vậy ông này cần những khoản viện trợ của Mỹ để duy trì sự ủng hộ của dân chúng. Bản thân quân đội Pakistan cũng rất cần viện trợ quân sự từ Mỹ để không bị Ấn Độ bỏ lại quá xa, hiện ngân sách quốc phòng của Pakistan chỉ bằng 1/3 của Ấn Độ.

Do đó, Pakistan âm thầm đồng ý cho Mỹ thực hiện các chiến dịch ám sát bằng máy bay không người lái (UAV) trong lãnh thổ Pakistan. Pakistan còn cho phép Mỹ thiết lập các cơ sở bí mật trong các căn cứ của quân đội Pakistan. Hoạt động tại các cơ sở đó chủ yếu là các đơn vị tình báo, đặc nhiệm, UAV. Nhiều đặc vụ CIA cũng được cho phép vào hoạt động bên trong nội địa Pakistan. Đặc nhiệm Mỹ và Pakistan đã cùng thực hiện một số nhiệm vụ tối mật bên trong lãnh thổ Pakistan để truy lùng các thủ lĩnh khủng bố. Quân đội Pakistan còn mở các chiến dịch quân sự quy mô lớn nhắm vào vùng bán tự trị của người Pashtun giáp với Afghanistan, một điều mà chính quyền Pakistan ít khi làm trước đây, vì không muốn đối đầu với các bộ tộc Pashtun tại đây. Khu vực này từ lâu đã trở thành 'thiên đường' của tàn quân Taliban và Al Qaeda. Mỹ do vậy thường xuyên yêu cầu Pakistan triển khai quân tại đây, kết hợp với lực lượng liên quân tấn công từ phía Afghanistan, để dồn ép Taliban và Al Qaeda từ cả 2 phía.

Một trong những nguyên nhân nữa đằng sau tính 2 mặt của Pakistan đối với chủ nghĩa khủng bố còn nằm ngay trong bản chất nền chính trị của nước này, đó là sự phân tán và cạnh tranh quyền lực giữa các thế lực chính trị: chính quyền dân sự và phe quân đội - tình báo. Trong quá khứ, các chính quyền dân sự tồn tại 1 thời gian sẽ bị quân đội đảo chính, khi mà sự tham nhũng và bất tài đã vượt quá mức chịu đựng, mực dù bản thân quân đội Pakistan cũng không hơn gì. Chính quyền dân sự nói chung ít có xu hướng cực đoan. Tương tự, hiện nay chính quyền dân sự Pakistan cũng là thế lực mà Mỹ có thể tin cậy nhất. Tuy vậy, như đã nói ở trên, chính quyền dân sự đôi lúc vẫn bị phe quân sự lấn át.

Căn bệnh ung thư trong lòng Pakistan

Như đã nói ở trên, từ những năm 70 của thế kỷ 20, Pakistan quyết định sử dụng chủ nghĩa cực đoan như một công cụ để giải quyết các vấn đề đối ngoại (Ấn Độ) và đối nội (chính phủ tham nhũng, năng lực kém…). Từ chỗ là 1 công cụ, chủ nghĩa cực đoan và khủng bố dần trở thành 1 căn bệnh mãn tính ở Pakistan, ăn sâu vào cả bộ máy nước lẫn trong dân chúng.

Trong gần như suốt lịch sử của mình, chính quyền Pakistan còn thường xuyên tuyên truyền cho người dân rằng các 'kẻ thù' Ấn Độ và phương Tây là nguồn gốc của mọi vấn đề, bất ổn của Pakistan. Nó giúp hướng sự giận dữ của người dân ra khỏi chính quyền, nhưng về lâu dài, nó chỉ càng làm tồi tệ thêm chủ nghĩa cực đoan trong đại bộ phận công chúng. Theo một cuộc thăm dò hồi năm 2007, chỉ có 2% người dân Pakistan tin rằng Al Qaeda gây ra vụ 11/09, trong khi có đến 27% tin rằng chính phủ Mỹ đã dựng lên sự kiện này. Tương tự, trong một cuộc thăm dò khác, có đến 66% người Pakistan không tin rằng Bin Laden đã chết.

Đặc biệt nghiêm trọng là việc các thành phần có tư tưởng cực đoan hiện diện rất nhiều trong lực lượng quân đội, an ninh và tình báo Pakistan. Rất nhiều thành viên chủ chốt của các cơ quan nhà nước Pakistan, đặc biệt là quân đội và tình báo, lại có quan hệ mật thiết, hay ít nhất là có cảm tình với các tổ chức khủng bố. Do đó Pakistan cũng thường xuyên có những hành động bất hợp tác, thậm chí phá hoại các nỗ lực của Mỹ. Quân đội Pakistan từ chối tiến vào 1 số khu vực bộ tộc Pashtun. Có một số khu vực mà thậm chí UAV của Mỹ cũng không được hoạt động. Tại đó các thủ lĩnh Taliban có thể di chuyển gần như công khai. Trên thực tế, Pakistan chỉ nhiệt tình săn lùng các tổ chức khủng bố gây bạo lực bên trong Pakistan. Các tổ chức chỉ chuyên tấn công Ấn Độ, hoặc các nước phương Tây thường được để yên. Đặc biệt nổi bật trong số này là mạng lưới khủng bố của Haqqani, một lãnh chúa Pashtun lâu năm. Nhiều chuyên gia đánh giá rằng Haqqani hiện nay còn nguy hiểm hơn Al Qaeda. Cũng chính mạng lưới này chịu trách nhiệm về vụ bắn rơi 1 trực thăng Chinook làm 30 lính đặc nhiệm Mỹ thiệt mạng. Không ít lần phía Pakistan để lộ thông tin các chiến dịch mật của phía Mỹ và tạo điều kiện cho mục tiêu trốn thoát.

Có liên hệ chặt chẽ nhất với chủ nghĩa cực đoan là Cục tình báo liên ngành ISI. Cơ quan được thành lập năm 1948, với nhiệm vụ tổng hợp thông tin từ Cục tình báo đối ngoại IB và Cục tình báo quân đội MI. Tuy nhiên không lâu sau đó nó được dùng như một cơ quan an ninh đối nội, chuyên truy tìm và đàn áp những ai chống đối chính phủ.

ISI thực sự nổi lên thành 1 quyền lực lớn từ những năm 80 khi nó có nhiệm vụ điều phối các hoạt động hỗ trợ cho các chiến binh Hồi giáo chống lại Liên Xô ở Afghanistan. Sau đó, cũng chính ISI là những người đã dựng lên Taliban. Sau khi Pakistan trở thành đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, ISI được giao nhiệm vụ truy lùng các phần tử khủng bố trong nội địa Pakistan, nhưng lại thường để yên cho các nhóm 'trung lập', nghĩa là những nhóm chuyên tấn công các mục tiêu phương Tây và Ấn độ.

Công nghệ và lực lượng

Lực lượng chính tham gia cuộc đột kích tiêu diệt Bin Laden là DevGru, hay thường được biết với cái tên SEAL Team 6. Trên giấy tờ thì SEAL Team 6 đã bị giải thể từ nhiều năm trước, DevGru là 1 đơn vị mới được thành lập sau này. Nhưng trên thực tế thì 2 đơn vị này là 1, việc thay tên chỉ nhằm mục đích bảo mật.

SEAL là lực lượng đặc nhiệm chính của Hải quân Mỹ, được tổ chức thành các 'Team', mỗi Team có quy mô bằng khoảng 1 đại đội. Trong đó Team 6 là đơn vị chuyên trách chống khủng bố. Một đơn vị nổi tiếng khác có nhiệm vụ tương tự với Team 6 là Delta Force của Lục quân Mỹ. Cả 2 đơn vị này tạo thành xương sống của Bộ chỉ huy liên hợp các chiến dịch đặc biệt (JSOC). JSOC là đầu não tổ chức, phối hợp các chiến dịch an ninh, chống khủng bố của quan đội Mỹ.

Trong số các lực lượng đặc biệt của Mỹ, những đơn vị những DevGru hay Delta Force thường được gọi là những 'đơn vị đen', ngược với các đơn vị còn lại, tức là những 'đơn vị trắng'. Cách gọi như vậy là để nhấn mạnh tính bí mật của chính các đơn vị này cũng như các nhiệm vụ của nó, mặc dù bản thân các lực lượng đặc nhiệm nói chung cũng đã có tính bí mật rất cao.

Chiến dịch tiêu diệt Bin Laden chắc chắn là một trong những chiến dịch quan trọng nhất trong lịch sử các chiến dịch đặc biệt. Tại sao DevGru lại được chọn để thực hiện chiến dịch này thay vì một đơn vị nào khác, ví dụ Delta Force? Bản thân tên của chiến dịch này ("Ngọn giáo của thần Hải dương") cũng mang hơi hướng hải quân. Lí do có thể là do tư lệnh của JSOC là 1 sĩ quan hải quân, phó đô đốc Bill McRaven.JSOC lại trực thuộc SOCOM, Bộ tư lệnh các chiến dịch đặc biệt , và người đứng đầu SOCOM lúc này là đô đốc Eric Olson, người từng là chỉ huy của DevGru.

Một thành viên đặc biệt của đội đột kích là chú chó Cairo. Những người lính 4 chân này đã được được sử dụng từ rất lâu tại nhiều nước trên thế giới, chủ yếu trong các vai trò cảnh giới, dò tìm chất nổ, phát hiện kẻ đột nhập…Riêng trong Thế chiến thứ 2, Hồng quân Liên Xô còn thử nghiệm sử dụng quân khuyển trong vai trò 1 'cảm tử quân' diệt tăng. Những chú chó này được huấn luyện để luôn chạy đến các xe tăng, khi đó người điều khiển sẽ kích nổ khối thuốc nổ gắn trên người nó. Tuy vậy trong thực tế đôi lúc chúng nhầm mục tiêu vì những chú chó này được huấn luyện với xe tăng của Liên Xô.

Quân đội Mỹ có tổng cộng hơn 600 quân khuyển tại Iraq và Afghanistan. Là 1 thành viên của lực lượng đặc nhiệm, những chú quân khuyển này cũng được huấn luyện và trang bị một cách đặc biệt. Chúng có cả kính bảo vệ mắt riêng, để chống chói nắng và đặc biệt là ngăn bụi và cát, vốn có rất nhiều tại Afghanistan và Iraq. Chúng cũng được mặc áo giáp bằng sợi Kevlar, có thể chống lại dao hoặc đạn súng lục cỡ nhỏ. Trong áo giáp này có những ngăn đặc biệt để chứa có gói hoá chất làm mát, vì chó không có tuyến mồ hôi nên khả năng thoát nhiệt kém hơn con người.  Những áo giáp này còn có những quai đeo đặc biệt để người điều khiển có thể mang vác quân khuyển của mình dễ dàng khi chúng bị thương, ví dụ có thể đeo nó sau lưng như 1 chiếc balô. Giá có mỗi áo giáp như vậy có thể có giá tới 1,000 dollar. Tuy vậy mức giá này cũng hợp lý nếu biết rằng 1 quân khuyển cần tới hơn 1 năm và 60,000 dollar để huấn luyện.

Thiết bị đặc biệt nhất được trang bị cho những quân khuyển là một loại camera để truyền hình ảnh mà chúng quan sát được trực tiếp về người điều khiển. Camera này có chức năng hoạt động trong đêm tối. Khoảng cách truyền tín hiệu giữa camera và người điều khiển là từ 200m, nếu trong nhà, và 1000m, nếu ngoài trời. Hình ảnh được hiển thị trên 1 thiết bị cầm tay của người điều khiển. Ngoài ra còn có hệ thống microphone để người điều khiển có thể ra lệnh cho chú chó của mình từ xa. Người này còn có thể hướng dẫn cho quân khuyển di chuyển theo ý mình bằng cách dùng tia laser. Nhiều người tin rằng những chú chó này thậm chí còn được bọc răng bằng titan. Một số chú chó còn được huấn luyện để cùng nhảy dù với lính đặc nhiệm. Khi đó quân khuyển sẽ được đeo vào trước ngực người điều khiển.

Khi cuộc đột kích đang diễn ra, TT Obama và các quan chức cao cấp khác có thể theo dõi trực tiếp diễn biến từ Nhà Trắng nhờ vào một máy bay không người lái (UAV) RQ-170 Sentinent đang lượn vòng phía trên. Sentinent là 1 mẫu UAV tàng hình dạng 'cánh bay', tức là hình dạng của nó gần giống với 1 chiếc B-2. Nhờ tính năng tàng hình của mình, Sentinent đã được sử dụng trong quá trình theo dõi khu nhà của Bin Laden và lập kế hoạch tấn công trong nhiều tháng liền mà phía Pakistan không thể phát hiện được. Ngoài ra, trong quá trình chiến dịch đang diễn ra, Sentinent cũng theo dõi liên lạc qua sóng vô tuyến của quân đội Pakistan trong khu vực đó, để có thể báo động cho đội đột kích trong trường hợp phía Pakistan phát hiện ra và điều động lực lượng đến. Ngoài ra còn có 2 UAV cỡ lớn Global Hawk bay gần đó làm nhiệm vụ như những trạm chuyển tiếp dữ liệu từ chiếc Sentinent trong toàn bộ quá trình theo dõi khu nhà cũng như khi chiến dịch đang diễn ra.

Một 'ngôi sao' nữa của chiến dịch này là 2 chiếc trực thăng tàng hình được dùng để chuyên chở đội đột kích. Nhờ việc 1 chiếc bị rơi và không bị phá huỷ hoàn toàn nên thế giới mới biết đến sự tồn tại của nó. Cho tới nay quân đội Mỹ vẫn chưa công khai bất kì thông tin về loại trực thăng này. Giới phân tích quân sự đặt cho nó biệt danh 'Airwolf', hoặc "Silent Hawk". Nó được cho là 1 phiên bản được nâng cấp đặc biệt của mẫu trực thăng đa dụng Black Hawk, vốn được sử dụng rất rộng rãi trong quân đội Mỹ.

Nhu cầu có các loại trực thăng đặc biệt có thể đưa các đơn vị đặc nhiệm đột nhập sâu vào lãnh thổ đối phương được đặt ra từ sau thất bại của chiến dịch Eagle Claw năm 1980. Mục tiêu của chiến dịch là giải cứu hơn 50 con tin Mỹ bị giam giữ tại Iran sau cuộc cách mạng Hồi giáo. Đây là chiến dịch đầu tiên của lực lượng đặc nhiệm Delta Force. Tuy nhiên đơn vị này được chuyên chở bằng các trực thăng thông thường, với các phi công thông thường. Do khoảng cách từ tàu sân bay đến mục tiêu quá xa, các trực thăng phải hạ cánh xuống một điểm bí mật trong sa mạc để được tiếp nhiên liệu và sau đó bay tiếp. Trong quá trình này một trực thăng đã va chạm với 1 máy bay vận tải C-130 làm cả 2 chiếc bốc cháy, 8 thành viên của chiến dịch thiệt mạng. Chiến dịch bị huỷ ngay lập tức. Nếu các trực thăng khi đó có khả năng tiếp nhiên liệu trên không thì đã không cần phải hạ cánh và sẽ không xảy ra va chạm.

Sau đó, những đơn vị trực thăng đặc biệt được thành lập, chuyên thực hiện những nhiệm vụ nguy hiểm như vậy, tập hợp những phi công xuất sắc nhất cùng những phiên bản nâng cấp từ những mẫu trực thăng thông thường. Ví dụ phiên bản MH-60 là bản cải tiến của Black Hawk, hoặc MH-47, bản cải tiến của trực thăng Chinook, cũng là loại được dùng để chuyên chở đội hỗ trợ và phản ứng nhanh trong chiến dịch này. Những phiên bản đặc biệt này được trang bị các thiết bị định vị hiện đại, radar địa hình, cảm biến hồng ngoại để cho phép nó bay ở độ cao cực thấp trong mọi điều kiện thời tiết. Ngoài ra nó còn được nâng cấp khả năng phòng vệ, bao gồm các thiết bị cảnh báo sớm, gây nhiễu radar đối phương, thiết bị laser dùng để làm 'mù' các cảm biến tầm nhiệt trên các tên lửa phòng không. Máy bay còn được trang bị các hệ thống liên lạc vệ tinh mã hoá, khả năng tiếp nhiên liệu trên không…Tuy nhiên, trực thăng có thiết kế tàng hình như Airwolf thì chưa từng được công chúng biết đến.

Mặc dù cho tới này chưa có loại trực thăng tàng hình nào chính thức có trong biên chế quân đội các nước, nhưng các dự án phát triển đã có từ khá lâu. Nhà chế tạo trực thăng Sikorsky Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này từ cuối những năm 1970. Cũng trong thời gian đó, một công ty Mỹ khác là Hughes Aircraft tham gia một dự án của CIA nhằm chế tạo một mẫu trực thăng dùng cho các chiến dịch tuyệt mật trong chiến tranh Việt Nam, gọi là OH-6A .Trong những năm 80,  tiến hành dự án MH-X nhằm chế tạo một trực thăng vận tải tàng hình. Những mẫu thử nghiệm của dự án được cho là đã được thử nghiệm chung với các mẫu máy bay tàng hình khác là F-117A và B-2.

Chương trình trực thăng tàng hình được biết đến nhiều nhất là mẫu Commanche RAH-66, trực thăng trinh sát vũ trang tàng hình của lục quân Mỹ. Chương trình này bị huỷ bỏ khi đã gần hoàn thành, do kinh phí đội lên quá cao. Giá thành trung bình 1 chiếc là 60 triệu dollar so với 12 triệu như dự tính. Commanche là mẫu đầu tiên tích hợp công nghệ 'tàng hình' đối với cả radar, âm thanh, bức xạ nhiệt và mắt thường.

Đối với các máy bay chiến đấu phản lực tàng hình như F-22, F-117, B-2…việc triệt tiêu tín hiệu radar là ưu tiên số 1. Tuy nhiên đối với trực thăng, yêu cầu này không quá quan trọng nhờ vào khả năng bay rất thấp và chậm. Đối với radar mặt đất, mục tiêu bay càng thấp thì tầm hoạt động của radar càng giảm, do tín hiệu radar bị cản lại bởi địa hình, công trình, cây cối…Các máy bay chiến đấu bay trên cao cũng khó phát hiện được trực thăng bay chậm và sát mặt đất, vì khi đó tín hiệu radar phản xạ lại từ trực thăng sẽ bị lẫn với tín hiệu phản xạ từ nhà cửa, cây cối, phương tiện…

Một minh chứng cho khả năng tàng hình 'tự nhiên' trước radar này là trong đêm mở màn cho Chiến dịch bão táp sa mạc (Chiến tranh Vùng Vịnh lần I), một tốp trực thăng vũ trang Apache, được 1 trực thăng Pave Low dẫn đường, luồn sâu vào lãnh thổ Iraq, tấn công tiêu diệt 2 trạm radar cảnh báo sớm, cùng lúc đó máy bay ném bom tàng hình F-117A tấn công các trạm chỉ huy, vị trí đặt tên lửa. 2 cuộc tấn công này tạo ra 1 lỗ thủng trong hệ thống phòng không Iraq để hàng trăm chiến đấu cơ của liên quân tràn qua. Như vậy tuy chỉ là những trực thăng bình thường, Apache vẫn có thể thực hiện những vụ nguy hiểm tương tự như của máy bay tàng hình, chỉ nhờ vào khả năng bay bám sát địa hình của mình.

Tất nhiên như vậy không có nghĩa là khả năng 'tàng hình' trước radar là không cần thiết đối với trực thăng. Commanche là mẫu trực thăng đầu tiên ứng dụng các đặc tính kỹ thuật của các máy bay phản lực tàng hình. Toàn bộ hình dạng bên ngoài máy bay được cấu tạo từ một số rất ít các bề mặt phẳng, trơn láng, mọi cấu trúc có góc vuông hoặc dạng hình trụ được loại bỏ, không có sự chuyển tiếp đột ngột ('gấp khúc') từ bề mặt này sang bề mặt khác, toàn bộ bề mặt ngoài của máy bay rất 'trơn láng' và rất ít có các chi tiết nhỏ nhô lên, được phủ vật liệu hấp thụ sóng radar. Bánh xe và vũ khí có thể được thu gọn vào bên trong thân máy bay.

Đối với trực thăng, kẻ thù lớn nhất khiến nó có thể bị phát hiện từ xa chính là tiếng ồn. Những dự án trực thăng tàng hình đầu tiên cũng chủ yếu tập trung vào việc giảm thiểu tiếng ồn. Nguồn gây tiếng ồn lớn nhất của trực thăng là từ cánh quạt đuôi, cánh quạt chính và tiếng ồn từ chính bản thân động cơ. Khi trực thăng đang hoạt động, đầu của các cánh quạt di chuyển với vận tốc rất nhanh trong không khí, và tạo ra những lốc xoáy nhỏ. Những lốc xoáy này khi va chạm với đầu cánh quạt kế tiếp tạo ra tiếng ồn đặc trưng của trực thăng, mà có thể được nghe thấy từ cách xa hơn 3km. Vấn đề này có thể được khắc phục bằng cách giảm vận tốc quay của cánh quạt. Làm như vậy đồng thời cũng sẽ làm giảm lực nâng từ các cánh quạt. Để bù lại, số cánh quạt sẽ phải tăng lên. Trong hình chụp phần còn lại của Airwolf tại hiện trường, có thể thấy phần cánh quạt đuôi có đến 5 cánh, trong khi các phiên bản Black Hawk thông thường chỉ có 4 cánh. Ngoài ra, đầu cánh quạt cũng có thể được cải tiến để giảm cường độ các lốc xoáy nhỏ.

Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng với mẫu trực thăng OH-6A mà CIA sử dụng tại Việt Nam. Loại này được nâng cấp từ trực thăng dân sự Hughes 269. Cánh quạt đuôi của 269 có 2 cánh, và được tăng lên thành 4 ở OH-6A. Cánh quạt chính được tăng thêm 1 cánh. Hộp số cũng được chuyển đổi để giảm tốc độ quay của cánh quạt. Ống xả động cơ được gắn thêm ống giảm thanh. Nhờ vậy, OH-6A là một trong những chiếc trực thăng yên lặng nhất từng được chế tạo. Một người thường không thể xác định được nó đang đến từ hướng nào ngay cả khi nó chỉ còn cách 100 - 200m.

Ngoài ra còn có 1 số phương pháp phụ khác để giảm tiếng ồn cho trực thăng. Trong những bức ảnh chụp phần còn lại của chiếc trực thăng bị rơi tại hiện trường, có thể thấy rõ một chi tiết hình tròn lớn chụp lên trên đỉnh của cánh quạt đuôi, nó cũng giúp triệt tiêu các nhiễu loạn không khí gây ra bởi cánh quạt, một trong những nguồn gốc tiếng ồn.

Việc giảm tiếng ồn của trực thăng cũng tương tự việc giảm thanh cho súng ở chỗ mục tiêu của nó không chỉ nhằm giảm độ ồn mà còn làm biến dạng tiếng ồn để làm mất âm thanh đặc trưng của trực thăng. Khi đó, ngay cả khi nghe thấy âm thanh, một người thường cũng khó nhận ra đó là 1 chiếc trực thăng đang bay đến.

Kẻ thù nguy hiểm thứ 2 của trực thăng là tín hiệu bức xạ nhiệt. Nếu như âm thanh báo trước sự xuất hiện của trực thăng từ xa thì nguồn nhiệt toả ra từ động cơ có thể khiến nó bị tiêu diệt. Đa số các tên lửa phòng không vác vai hiện nay dùng cảm biến nhiệt để lần theo mục tiêu. Do đó các trực thăng quân sự thường được trang bị hệ thống phòng vệ trước những tên lửa này. Một hệ thống như vậy gồm từ 4 - 6 cảm biến tia cực tím gắn xung quanh máy bay, khi phát hiện ra có tên lửa, hệ thống sẽ phóng ra các mục tiêu giả để đánh lạc hướng tên lửa. Chi phí cho hệ thống này không hề rẻ, khoảng 2 triệu dollar. Tất nhiên nó cũng không thể đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trực thăng. Do đó việc giảm bức xạ nhiệt thoát ra từ trực thăng vẫn luôn là 1 ưu tiên hàng đầu.

Commanche là mẫu trực thăng có thiết kế toàn diện nhất trong việc hạn chế nhiệt toả ra. Commanche được thiết kế để dòng khí nóng từ động cơ không thải trực tiếp ra bên ngoài mà được dẫn đi dọc theo đuôi máy bay đến tận cánh quạt đuôi. Khi đó cánh quạt đuôi sẽ đảm nhận luôn nhiệm vụ làm mát dòng khí nóng này. Ngoài ra, do phải di chuyển 1 đoạn đường dài gần hết chiều dài của máy bay, nên dòng khí này cũng nguội đi bớt.

Tàng hình đối với mắt thường là yêu cầu khó nhất, nhưng cũng ít quan trọng nhất vì đa số những chiến dịch đặc biệt như vậy được thực hiện vào ban đêm. Ngoài ra, người ta cũng có thể thiết kế hình dạng bên ngoài sao cho trực thăng khó bị nhận dạng từ xa. Mẫu Commanche được thiết kế với bề ngang nhỏ nhất có thể, cánh mang vũ khí và bánh xe đều có thể được thu gọn vào bên trong. Do đó khi nhìn trực diện từ phía trước, người ta sẽ khó nhận thấy Commanche đang bay đến hơn so với các loại trực thăng khác.

Tóm lại, mặc dù chưa có thông tin chính cụ thể nào được tiết lộ, nhưng dựa vào các công nghệ sẵn có và các chương trình phát triển trước đây,  có thể cho rằng Airwolf kết hợp các công nghệ 'tàng hình' về âm thanh, tín hiệu radar, bức xạ nhiệt, cùng với các thiết bị điện tử, cảm biến hiện đại cho phép nó bay bám sát địa hình trong mọi điều kiện thời tiết, cùng các phương tiện liên lạc vệ tinh mã hoá. Tất cả nhằm cho phép nó đột nhập sâu vào lãnh thổ đối phương và thoát ra an toàn.

Ý nghĩa của việc tiêu diệt Bin Laden

Thứ nhất, việc giết Bin Laden giúp nước Mỹ trả được món nợ tinh thần với gần 3,000 người thiệt mạng trong vụ 11/9. Món nợ đã kéo nước Mỹ vào cái gọi là Cuộc chiến toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố. Cho đến nay đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Thứ hai, sự kiện này giúp dọn đường cho TT Obama thay đổi toàn diện chiến lược tại Afghanistan, rút dần lực lượng Mỹ tại đây về nước. Bởi vì Bin Laden là lí do trực tiếp đưa người Mỹ đến Afghanistan, nay lí do đó đã không còn, người Mỹ có thể rút đi mà không phải quá lo lắng về vấn đề thắng-thua.

Có nhiều ý kiến cho rằng giết một Bin Laden này, sẽ có nhiều Bin Laden khác thay thế. Vậy liệu Apple có thể tìm được bao nhiêu Steve Job mới? Và đến bao giờ nước Pháp mới sản sinh ra một thiên tài quân sự như Napoleon? Hiển nhiên là có thể dễ dàng tìm được 1 người sẵn sàng tự cho nổ tung mình cho sự nghiệp 'tử vì đạo', nhưng rất khó để tìm được 1 người hội đủ được tầm nhìn, khả năng lãnh đạo, tổ chức, cũng như sức hút với người khác, và đặc biệt là tiềm lực tài chính cá nhân như Bin Laden. Những cá nhân đặc biệt, cho dù theo nghĩa tích cực hay tiêu cực, không thường xuyên xuất hiện.

Thứ tư, trong mọi cuộc đột kích tương tự, bên cạnh việc tiêu diệt hay bắt sống các thủ lĩnh khủng bố, thu thập thông tin tình báo luôn là ưu tiên thứ 2. Những thông tin này có thể dưới dạng giấy, máy tính, điện thoại di động, ổ lưu trữ ngoài, CD…Vị trí của mục tiêu càng cao trong tổ chức, thông tin thu được càng có giá trị. Đối với Bin Laden, lượng tin tức tình báo tịch thu trong cuộc đột kích cũng tương ứng với vị thế 'trùm khủng bố', và được đánh giá là kho thông tin quan trọng nhất mà tình báo Mỹ từng thu được. Trong đó cho thấy Bin Laden đang đích thân lên những kế hoạch đầy tham vọng, như tấn công vào lễ tưởng niệm vụ 11/9, tấn công mạng lưới đường sắt của Mỹ, ám sát TT Obama và tướng Petraeus, người từng đứng đầu Bộ tư lệnh Trung tâm, chịu trách nhiệm tại cả chiến trường Iraq và Afghanistan.

Lượng thông tin khổng lồ thu được từ cuộc đột kích cũng bác bỏ ý kiến cho rằng Bin Laden hiện nay không đóng vai trò thực tế nào trong hoạt động của Al Qaeda. Mặc dù đúng là mạng lưới khủng bố này không còn là một tổ chức mang tính tổ chức và tập trung cao như trước (sẽ nói rõ hơn ở phần sau), do đó Bin Laden cũng không can dự nhiều vào việc điều hành trực tiếp, nhưng Bin Laden vẫn giữ liên lạc thường xuyên với các thuộc hạ, đóng vai trò là người truyền cảm hứng, vạch ra chiến lược cũng như lên ý tưởng cho những cuộc tấn công mới.

Việc giết Bin Laden cũng giúp tăng uy tín của nước Mỹ và răn đe các mục tiêu khác khi nó khẳng định với thế giới rằng cho dù phải tốn bao nhiêu thời gian và công sức, Mỹ cũng sẽ truy lùng cho được kẻ thù của mình.


Một câu hỏi cuối cùng về lợi ích của việc tiêu diệt Bin Laden đối với bản thân TT Mỹ trong việc tái đắc cử trong kì bầu cử 2012. Sự kiện này tất nhiên có ảnh hưởng tích cực đến TT Obama, tuy nhiên hiệu quả thật sự của nó có thể chỉ ở mức tối thiểu. Đó là vì nền chính trị Mỹ rất phức tạp và đầy biến động, mà người ta thường ví rằng ở đó 3 tháng tương đương với 1 'đời người', cho thấy sự thay đổi khôn lường của chính trị Mỹ. Như vậy từ khi Bin Laden bị hạ cho đến kì bầu cử dài tương đương với 6 'đời người'. Cộng với việc nước Mỹ đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ thứ 2 trong lịch sử, có thể nhận định rằng việc tiêu diệt Bin Laden sẽ có rất ít ảnh hưởng lên cơ may chiến thắng của TT Obama trong kì bầu cử 2012.

No comments: